Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 18/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 76/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 18 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý: 204/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2019 về việc: “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Thúy V, sinh năm: 1995; (xin vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Anh Trần Đức A, sinh năm: 1992; (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp B, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai ghi ngày 19/4/2019, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Huỳnh Thị Thúy V trình bày:

Do mai mối chị và anh Trần Đức A tiến tới hôn nhân vào tháng 4/2014, có đăng ký kết hôn. Vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 01/2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng thường hay cự cãi nhau, anh Trần Đức A không lo làm ăn, không quan tâm chăm sóc vợ con và không chung thủy. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 5/2018 đến nay.

Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh Trần Đức A.

Về con chung: Có 01 con chung tên Trần Gia P, sinh ngày 24/11/2014, hiện đang sống với chị. Khi ly hôn, về con chung chị yêu cầu được nuôi, không yêu cầu anh Trần Đức A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Trần Đức A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Thúy V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Xét thấy, bị đơn anh Trần Đức A cư trú: Ấp B, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Do đó, tranh chấp ly hôn giữa chị Huỳnh Thị Thúy V và anh Trần Đức A thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ Luật tố tụng dân sự.

[2] Chị Huỳnh Thị Thúy V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị Huỳnh Thị Thúy V theo quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Tòa án đã triệu tập, niêm yết công khai Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa đối với bị đơn anh Trần Đức A nhưng anh Trần Đức A vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Trần Đức A.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, chị Huỳnh Thị Thúy V và anh Trần Đức A kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 30/7/2014 tại Quyển số 01/2014, đây là hôn nhân hợp pháp. Chị Huỳnh Thị Thúy V đề nghị Tòa án cho ly hôn vì cho rằng trong quá trình sống chung vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng thường hay cự cãi nhau, anh Trần Đức A không lo làm ăn, không quan tâm chăm sóc vợ con và không chung thủy. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 5/2018 đến nay. Khi chị Huỳnh Thị Thúy V có đơn xin ly hôn, Tòa án đã tống đạt Thông báo thụ lý vụ án hợp lệ cho anh Trần Đức A nhưng anh Trần Đức A không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Thúy V và tại phiên tòa anh Trần Đức A vắng mặt không có lý do, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ. Điều đó đã cho thấy anh Trần Đức A đã không còn quan tâm đến hôn nhân giữa anh và chị Huỳnh Thị Thúy V. Xét thấy, tình cảm và đời sống chung của vợ chồng của chị Huỳnh Thị Thúy V và anh Trần Đức A đã không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận cho chị Huỳnh Thị Thúy V được ly hôn với anh Trần Đức A là phù hợp.

[5] Về con chung: Quá trình chung sống chị Huỳnh Thị Thúy V và anh Trần Đức A có 01 con chung tên Trần Gia P, sinh ngày 24/11/2014 hiện do chị Huỳnh Thị Thúy V đang trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị Huỳnh Thị Thúy V yêu cầu được quyền nuôi con chung, không yêu cầu anh Trần Đức A cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, hiện tại cháu Trần Gia P đang sống cùng chị Huỳnh Thị Thúy V, cuộc sống ổn định, sức khỏe tốt, hiện tại chị Huỳnh Thị Thúy V có công việc thu nhập ổn định, đủ điều kiện để chăm sóc tốt con chung. Đối với anh Trần Đức A từ khi vụ án thụ lý giải quyết cho đến khi xét xử cũng không có nguyện vọng được nuôi con chung. Vì vậy, để đảm bảo cho sự phát triển ổn định về thể chất, học hành, sự phát triển về tinh thần, cũng như các quyền lợi khác của con chung nên tiếp tục giao cháu Trần Gia P cho chị Huỳnh Thị Thúy V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình. Anh Trần Đức A không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Huỳnh Thị Thúy V không yêu cầu.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Huỳnh Thị Thúy V không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí: Chị Huỳnh Thị Thúy V phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật tố tụng dân sự; Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 và khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Huỳnh Thị Thúy V được ly hôn với anh Trần Đức A.

2. Về con chung: Giao con chung tên Trần Gia P, sinh ngày 24/11/2014 cho chị Huỳnh Thị Thúy V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Trần Đức A không phải cấp dưỡng nuôi con, do chị Huỳnh Thị Thúy V không yêu cầu.

Anh Trần Đức A có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

3. Về án phí: Chị Huỳnh Thị Thúy V phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được trừ vào 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 16648 ngày 26/4/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang nên xem thi hành xong.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 18/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:76/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về