Bản án 76/2018/HNGĐ-ST ngày 30/07/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 76/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 170/2018/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 39/2018/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị V, sinh năm 1975 (có mặt).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Hoàng P, sinh năm 1973 (có mặt).

Cùng trú tại: Ấp K, xã L, huyện Q, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 12 tháng 4 năm 2018 và trong quá trình xét xử,nguyên đơn bà Trần Thị V trình bày:

Trên cơ sở quen biết, được sự đồng ý của gia đình, bà và ông Nguyễn Hoàng P tổ chức lễ cưới vào năm 1994 và đăng ký kết hôn vào ngày 07/6/1999 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Q, tỉnh Vĩnh Long. Thời gian vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 23 năm thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tường xuyên cự cãi dẫn đến mất hạnh phúc. Mặc dù, vợ chồng đã nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng không đạt kết quả. Do đó, vợ chồng sống ly thân nhau từ tháng 01/2018 cho đến nay mà không thể đoàn tụ. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung sống không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, bà yêu cầu được ly hôn với ông P. Về con chung, vợ chồng có với nhau 02 người con chung tên Nguyễn Ngọc N sinh ngày 07/10/1994 và Nguyễn Ngọc Y sinh ngày 25/6/1999 đã thành niên không bị nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Vì vậy, bà không tranh chấp yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung. Về tài sản chung và nợ chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Hoàng P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt, không giao nộp văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà V cũng như giao nộp các tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Pg đã được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai vắng mặt không có lý do vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan và không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Theo nội dung đơn khởi kiện và lời trình bày của bà Trần Thị V kết luận quan hệ pháp luật tranh chấp về ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Tam Bình theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2]. Về thủ tục tố tụng: Xét tại phiên toà sơ thẩm, ông Nguyễn Hoàng P đã được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn tiếp tục vắng mặt không có lý do vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan và không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Ptheo thủ tục chung.

 [3]. Về hôn nhân: Xét bà V và ông P là vợ chồng hợp pháp có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Xét trong thời gian chung sống, xuất phát từ bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến thường xuyên cự cải mất hạnh phúc. Mặc dù, bà V, ông P cố gắn điều hòa mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm nhưng không đạt kết quả. Bà V và ông P có thời gian sống ly thân từ tháng 01/2018 đến nay mà không trở về đoàn tụ. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt, không giao nộp văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà V cũng như giao nộp các tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Nên không có căn cứ để Tòa án xem xét giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp cho ông P theo quy định pháp luật. Do đó, căn cứ vào lời trình bày của bà V và thời gian sống ly thân thực tế có cơ sở kết luận đời sống chung giữa bà V và ông P không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án giải quyết cho ly hôn giữa bà V và ông P.

 [4]. Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Xét bà V và ông P có với nhau 02 người con chung đều đã thành niên không bị nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần và không tranh chấp về con chung. Về tài sản chung và nợ chung bà V không yêu cầu giải quyết. Do đó, tất cả các vấn đề này Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết trong vụ án.

 [5]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Xét trong vụ án ly hôn nguyên đơn phải chịu án sơ thẩm giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, kèm theo danh mục án phí, lệ phí Toà án. Do đó, bà V phải chịu án phí số tiền 300.000 đồng, được khấu trừ vào trong số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản

4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, kèm theo danh mục án phí, lệ phí Toà án.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Trần Thị V và ông Nguyễn Hoàng P.

2. Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết trong vụ án này.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bà Trần Thị V phải nộp án phí ly hôn số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng. Số tiền này bà V được khấu trừ xong vào trong số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số No 0010838 ngày 13 tháng 4 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

5. Vụ án được xét xử công khai. Có mặt bà Trần Thị V là nguyên đơn, vắng mặt ông Nguyễn Hoàng P là bị đơn. Báo cho bà V có mặt biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để Tòa án cấp trên xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Riêng ông P vắng mặt thì thời hạn trên được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2018/HNGĐ-ST ngày 30/07/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:76/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về