Bản án 761/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 761/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 25 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 533/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2019 về việc: “tranh chấp ly hôn và nuôi con ” Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 173/2019/QĐST-HN ngày 24 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyễn Thị C, sinh năm 1974; Nơi cư trú: ấp TT, xã TH, huyện CT, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Phạm Quốc H, sinh năm 1972; Nơi cư trú: ấp TT, xã TH, huyện CT, tỉnh Tiền Giang.

( Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, Bị đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, Tờ tự khai cũng như trong quá trình giải quyết nguyên đơn Nguyễn Thị C trình bày:

Chị và anh Phạm Quốc H sống chung với nhau năm 1992, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hương vào năm 2004. Từ khi kết hôn, anh chị sống hạnh phúc đến năm 2006 thì phát sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân do Anh H không chung thủy, thường xuyên uống rượu say, không chăm lo cho cuộc sống gia đình, hay đánh đập chị và các con dẫn đến cuộc sống chung vợ chồng không thể tồn tại được nữa.

Anh H tự ý bỏ nhà đi ra ngoài sống và cắt đứt quan hệ vợ chồng với chị từ năm 2018 cho đến nay. Chị cố gắng chịu đựng để gia đình được đoàn tụ, nhưng Anh H không sửa chữa tính tình nên không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng được; Gia đình hai bên đã hòa giải nhiều lần nhưng không hòa thuận được. Chị thấy mâu thuẩn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn. Chị yêu cầu Tòa giải quyết như sau:

- Về hôn nhân: Yêu cầu ly hôn với anh Phạm Quốc H.

- Về nuôi con chung: Trong thời gian sống chung vợ chồng có 04 con chung tên Phạm Thị Phương T sinh năm 1993; Phạm Thị Phương L sinh năm 1994; Phạm Thị Phương H sinh năm 1998; Phạm Thị Phương M sinh ngày 03/6/2004. Từ khi ly thân, con chung do chị trực tiếp nuôi dưỡng cuộc sống ổn định, đảm bảo về mặt vật chất và tinh thần. Nay cháu T, L, H đã thành niên, chỉ còn cháu M chưa đủ 18 tuổi. Chị C yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung tên Phạm Thị Phương M cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

- Về cấp dưỡng: Chị C cho rằng hiện nay chị có thu nhập ổn định, đủ điều kiện nuôi con nên chưa yêu cầu anh Phạm Quốc H phải cấp dưỡng nuôi con.

- Tài sản chung: không có tranh chấp, không yêu cầu giải quyết.

- Nợ chung: không có tranh chấp, không yêu cầu giải quyết.

* Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Phạm Quốc H đã được Tòa án Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Phạm Quốc H không có tự khai trình bày ý kiến, không tham gia hòa giải nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

* Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát:

- Về nội dung vụ án: Căn cứ vào quy định Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị C: Cho chị Nguyễn Thị C và anh Phạm Quốc H ly hôn; Về nuôi con chung để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu Phạm Thị Phương M và nguyện vọng của cháu, đề nghị giao con chung cho chị Nguyễn Thị C trực tiếp nuôi dưỡng; Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung, nợ chung không xem xét do các bên không tranh chấp.

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư Ký, HĐXX, nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng thủ tục tố tụng. Bị đơn không thực hiện đúng nghĩa vụ có mặt khi Tòa án triệu tập. Đến thời điểm trước khi nghị án, Viện kiểm sát không có kiến nghị bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Chị Nguyễn Thị C yêu cầu ly hôn với anh Phạm Quốc H và yêu cầu được nuôi con. Hội đồng xét xử (HĐXX) xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp ly hôn và nuôi con .

[2] Về thủ tục tố tụng:

Xét bị đơn Phạm Quốc H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt anh Phạm Quốc H theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 BLTTDS.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy chị Nguyễn Thị C và anh Phạm Quốc H sống chung có đăng ký kết hôn năm 2004 theo đúng quy định Luật hôn nhân và gia đình nên được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Xét lời khai chị Nguyễn Thị C về nguyên nhân mâu thuẩn, điều kiện nuôi con chung, tài sản chung, nợ chung. Tòa án đã thông báo cho anh Phạm Quốc H được biết nhưng Anh H không có ý kiến phản đối. Do vậy, căn cứ Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX xác định các tình tiết nêu trên là sự thật.

Xét quá trình sống chung: anh chị sống không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên cự cải. Chị C cho rằng tình cảm vợ chồng giữa chị và Anh H không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ về tình trạng hôn nhân của Chị C và Anh H cũng thể hiện anh chị đã mâu thuẩn trầm trọng. Anh H cũng không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tòa án tổ chức hòa giải để anh chị đoàn tụ nhưng Anh H không tham gia hòa giải. Điều đó chứng tỏ tình cảm giữa Chị C và Anh H không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 51, 56 Luật hôn nhân và Gia đình. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị C.

[4] Về nuôi con chung: Cháu Phạm Thị Phương M chưa đủ 18 tuổi nên rất cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha hoặc mẹ. Chị Nguyễn Thị C yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung. Xét thấy, Chị C có đủ điều kiện về đạo đức, sức khỏe và các điều kiện cần thiết để nuôi con; Từ khi chị và Anh H không còn sống chung, cháu M do chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cũng đảm bảo, cuộc sống đã ổn định. Hơn nữa, cháu M cũng có nguyện vọng sống chung với Chị C nên cần giao cho Chị C trực tiếp nuôi dưỡng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em. Căn cứ Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và Gia đình, HĐXX chấp nhận yêu cầu giao con chung cho chị Nguyễn Thị C trực tiếp nuôi dưỡng. Anh H được quyền thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản.

[5] Về cấp dưỡng: chị Nguyễn Thị C trình bày hiện tại chị đủ điều kiện để nuôi con chưa yêu cầu Anh H cấp dưỡng nuôi con. HĐXX ghi nhận và không xem xét về nghĩa vụ cấp dưỡng.

[6] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, HĐXX không xem xét.

[7] Về nợ chung: Các bên đương sự không yêu cầu giải quyết. HĐXX không xem xét.

[8] Xét ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật như đã phân tích trên. HĐXX chấp nhận.

[9] Về án phí: Chị Nguyễn Thị C phải chịu án phí DSST trong vụ án ly hôn theo quy định khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

Điều 92, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí.

Xử: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị C.

- Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị C ly hôn với anh Phạm Quốc H.

- Về nuôi con chung: Giao cháu Phạm Thị Phương M sinh ngày 03/6/2004 cho chị Nguyễn Thị C trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Phạm Quốc H được quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.

- Về cấp dưỡng nuôi con: không xem xét.

- Tài sản chung: không xem xét.

- Về nợ chung: Không xem xét.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị C phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn. Được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí chị Nguyễn Thị C đã nộp theo biên lai thu số 01069 ngày 22/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

- Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 761/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:761/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về