Bản án 759/2019/HNGĐ-ST ngày 03/07/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 759/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/07/2019 VỀ LY HÔN

Trong ngày 03 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử công khai vụ án thụ lý số 240/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2651/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Phùng Vũ Thế H, sinh năm 1970

Đa chỉ: phường P, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Bà Nguyen Trieu Huy T, sinh năm 1977 Địa chỉ: USA.

(Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai, nguyên đơn là ông Phùng Vũ Thế H trình bày:

Ông Phùng Vũ Thế H và bà Nguyen Trieu Huy T tự nguyện kết hôn và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 21/4/2015, vào sổ đăng ký kết hôn số 1044, quyển số 06 ngày 22/4/2015 tại Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi kết hôn, ông bà chung sống một tháng ở Việt Nam. Sau đó bà Nguyen Trieu Huy T trở về Hoa Kỳ sinh sống và làm việc. Ông bà liên lạc với nhau qua điện thoại. Do khoảng cách địa lý, ông bà không có nhiều thời gian để quan tâm chăm sóc nhau dẫn đến tình cảm phai nhạt. và văn hóa khác nhau nên ông bà thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Bà Nguyen Trieu Huy T không có dự định sống ở Việt Nam cùng ông H. Ông H cũng không sang Hoa Kỳ đoàn tụ với bà được. Ông bà đã ngừng liên lạc khoảng 3 năm nay, mãi gần đây ông bà mới liên lạc lại để cùng nhau giải quyết vấn đề ly hôn. Nhận thấy cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, quan hệ vợ chồng không thể hàn gắn được, vợ chồng không có đời sống chung, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông H yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Nguyen Trieu Huy T.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Về nợ chung: Không có.

Tại Văn bản trình bày ý kiến được Tổng lãnh sự quán Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Houston, Hoa Kỳ chứng nhận ngày 23/5/2019, bà Nguyen Trieu Huy T có ý kiến như sau:

Bà thống nhất với lời trình bày của ông H về quan hệ hôn nhân. Do thời gian tìm hiểu và ở bên nhau quá ít nên hiện nay tình cảm vợ chồng không còn như lúc đầu, mâu thuẫn phát sinh do khác biệt về quan điểm sống, khiến cho mục đích hôn nhân không đạt được. Bà sống ở Hoa Kỳ còn ông H sống ở Việt Nam nên cũng không có khả năng đoàn tụ gia đình. Nay ông H xin ly hôn thì bà đồng ý.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Về nợ chung: Không có. Tại phiên tòa sơ thẩm, Ông Phùng Vũ Thế H và bà Nguyen Trieu Huy T đều vắng mặt và có đơn xin vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Ông Phùng Vũ Thế H đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh có đơn xin ly hôn với bà Nguyen Trieu Huy T hiện đang sinh sống tại Hoa Kỳ. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Điều 28, Điều 37, Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Phùng Vũ Thế H và bà Nguyen Trieu Huy T tham gia phiên tòa vào lúc 8 giờ 00 phút ngày 03/7/2019 nhưng ông Phùng Vũ Thế H và bà Nguyen Trieu Huy T cùng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn:

Ông Phùng Vũ Thế H và bà Nguyen Trieu Huy T có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 21/4/2015, vào sổ đăng ký kết hôn số 1044, quyển số 06 ngày 22/4/2015 nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Theo ông Phùng Vũ Thế H và bà Nguyen Trieu Huy T trình bày thì sau khi kết hôn thì bà Nguyen Trieu Huy T quay trở lại Hoa Kỳ sinh sống và làm việc, còn ông H sinh sống ở Việt Nam đến nay. Ông H và bà Nguyen Trieu Huy T thừa nhận do khoảng cách về địa lý, hai bên không có điều kiện gần gũi, chăm sóc nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng bị phai nhạt, không còn khả năng hàn gắn vì vậy hai bên thống nhất sẽ ly hôn. Vì vậy, khi ông H khởi kiện xin ly hôn, bà Nguyen Trieu Huy T đã gửi văn bản trình bày ý kiến đồng ý ly hôn với ông H; do đó yêu cầu của ông H xin ly hôn với bà Nguyen Trieu Huy T là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: Các đương sự khai không có nên không xét.

Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên không xét.

Về nợ chung: Các đương sự khai không có nên không xét.

[4] Án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng ông H phải chịu theo quy định của pháp luật.

[5] Về quyền kháng cáo: Ông Phùng Vũ Thế H và bà Nguyen Trieu Huy T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 37, Điều 40, Điều 147, Khoản 1 Điều 228, Điều 262, Điều 266, Điều 273, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Phùng Vũ Thế H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Phùng Vũ Thế H được ly hôn với và bà Nguyen Trieu Huy T.

2. Về con chung: Không có.

3. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí: Ông Phùng Vũ Thế H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000 (ba trăm ngàn) đồng ông Phùng Vũ Thế H đã nộp theo biên lai thu tạm tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2018/0013073 ngày 23 tháng 4 năm 2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Phùng Vũ Thế H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Ông Phùng Vũ Thế H được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Bà Nguyen Trieu Huy T có quyền kháng cáo trong hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 759/2019/HNGĐ-ST ngày 03/07/2019 về ly hôn

Số hiệu:759/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về