Bản án 758/2019/HNGĐ-ST ngày 16/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 758/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 538/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2019 về hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị Tố N, sinh năm 1986; cư trú tại: Tổ A, khu vực B, phường Đ, TP. Quy Nhơn, T. Bình Định.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc N, sinh năm 1985; cư trú tại: Tổ A, khu vực B, phường Đ, TP. Quy Nhơn, T. Bình Định.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng măt tại phiên Tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 31-5-2019 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Trịnh Thị Tố N trình bày: Chị và anh Nguyễn Ngọc N tự nguyện tìm hiểu được 02 năm trước khi tiến đến hôn nhân. Ngày 16/9/2013 anh chị đăng ký kết hôn tại UBND xã N, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc trong thời gian đầu, đến tháng 5/2018 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, anh N không lo làm ăn, không có trách nhiệm với vợ con nên vợ chồng thường xảy xuyên xảy ra cãi nhau sống không có hạnh phúc, mâu thuẫn giữa vợ chồng xảy ra gay gắt nên vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, mạnh ai nấy sống, không ai còn quan tâm đến ai. Nay chị nhận thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn được nữa, tình cảm vợ chồng đến nay cũng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị yêu cầu Tòa giải quyết cho chị được ly hôn với anh N.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng anh chị có hai con chung tên Nguyễn Trịnh Phúc N, sinh ngày 18/12/2013 và Nguyễn Trịnh Anh M, sinh ngày 10/4/2017. Hiện nay sức khỏe con bình thường và đang sống cùng chị. Ly hôn chị yêu cầu được nuôi hai con và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị và anh N tự thỏa thuận nên chị không yêu cầu Tòa giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Ngọc N trình bày: Anh thống nhất về thời gian và điều kiện kết hôn như chị N đã trình bày. Về nguyên nhân mâu thuẫn theo anh kể từ ngày chung sống vợ chồng sống hạnh phúc bình thường đến tháng 5/2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh thất bại trong làm ăn dẫn đến kinh tế vợ chồng thất bát, nên vợ chồng thường xuyên cải nhau, không còn tôn trọng nhau, tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, mâu thuẫn vợ chồng trở nên gay gắt vì bản thân anh không chăm lo cho vợ và các con, vợ chồng cũng ly thân từ đó. Nay mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng không thể thể hàn gắn được vì tình cảm vợ chồng không còn, nên chị N yêu cầu ly hôn với anh, anh đồng ý ly hôn chị N.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng anh chị có hai con chung tên Nguyễn Trịnh Phúc N, sinh ngày 18/12/2013 và Nguyễn Trịnh Anh M, sinh ngày 10/4/2017. Hiện nay sức khỏe con bình thường và đang sống cùng chị N. Nay ly hôn theo anh, chị N tiếp tục nuôi dưỡng hai con sẽ tốt hơn, còn anh không có khả năng cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Quy Nhơn phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật về tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Thẩm phán đã thực hiện đúng theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm xét xử sơ thẩm. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự: Nguyên đơn thực hiện đúng nhưng bị đơn vẫn còn vi phạm các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; Điều 82 Luật Hôn nhân gia đình 2014. Chấp nhận yêu cầu của chị Trịnh Thị Tố N về việc xin ly hôn anh Nguyễn Ngọc N. Chị N được tiếp tục nuôi dưỡng hai con Nguyễn Trịnh Phúc N, sinh ngày 18/12/2013 và Nguyễn Trịnh Anh M, sinh ngày 10/4/2017. Án phí HNGĐ chị N chịu theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng:

- Về thẩm quyền: Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn và nuôi con chung. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại tổ A, khu vực B, phường Đ, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn thụ lý vụ án, giải quyết theo thẩm quyền quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 35 và điểm a, khoản 1, Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Ngọc N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên HĐXX căn cứ vào Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt anh N.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trịnh Thị Tố N và anh Nguyễn Ngọc N kết hôn trên cơ sở tìm hiểu, tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 16/9/2013 tại UBND xã N, thành phố Quy Nhơn nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Trong quá trình chung sống anh chị hạnh phúc thời gian đầu, đến tháng 5/2018 thường xuyên phát sinh mâu thuẫn không tự giải quyết được vợ chồng sống không có hạnh phúc và anh chị sống ly thân cho đến nay. Tại phiên tòa hôm nay chị N yêu cầu ly hôn anh N, anh N đồng ý ly hôn chị N nhưng anh không đến Tòa và xin xét xử vắng mặt anh. HĐXX xét thấy hôn nhân của anh chị có mâu thuẫn và đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên nay chị N yêu cầu ly hôn anh N là phù hợp với quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội được qui định tại Điều 56 luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[3] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống anh chị có hai con chung tên Nguyễn Trịnh Phúc N, sinh ngày 18/12/2013 và Nguyễn Trịnh Anh M, sinh ngày 10/4/2017. Hiện nay sức khỏe bình thường và đang sống cùng với chị N. Ly hôn chị N yêu cầu được nuôi hai con và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con. Anh N cho rằng hai con ở với chị N sẽ tốt hơn vì anh không có điều kiện để cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu trực tiếp được nuôi dưỡng hai con chung của chị N là hoàn toàn chính đáng và được anh N chấp nhận, hơn nữa các con còn rất nhỏ, là cháu gái và đang sống ổn định với chị N nên HĐXX giao hai con tên Nguyễn Trịnh Phúc N, sinh ngày 18/12/2013 và Nguyễn Trịnh Anh M, sinh ngày 10/4/2017 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Việc cấp dưỡng nuôi con: Chị N không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

- Về quan hệ tài sản : Anh chị thống nhất không yêu cầu Tòa giải quyết.

- Về án phí HNGĐST: Căn cứ theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14, chị Trịnh Thị Tố Nga phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với HĐXX.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, 39, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Trịnh Thị Tố N ly hôn anh Nguyễn Ngọc N.

2. Về con chung: Chị N và anh N có hai con chung Nguyễn Trịnh Phúc N, sinh ngày 18/12/2013 và Nguyễn Trịnh Anh M, sinh ngày 10/4/2017. Hiện sức khỏe con bình thường đang sống chung ở với chị N.

- Việc nuôi dưỡng con chung: Giao hai con tên Nguyễn Trịnh Phúc N, sinh ngày 18/12/2013 và Nguyễn Trịnh Anh M, sinh ngày 10/4/2017 cho chị Trịnh Thị Tố N được trực tiếp nuôi dưỡng.

- Việc cấp dưỡng nuôi con: Chị N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Vì lợi ích của con khi cần thiết hai bên có quyền xin thay đổi nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Hai bên có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung không bên nào được ngăn cản.

3. Về tài sản chung: Chị N anh N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị Trịnh Thị Tố N phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0001532 ngày 12/6/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự Tp. Quy Nhơn. Chị N đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Trịnh Thị Tố N được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Ngọc N được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 758/2019/HNGĐ-ST ngày 16/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:758/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về