Bản án 75/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN Q. HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 75/2019/HS-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay ngày 24 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự, thụ lý số 71/2019/HSST ngày 21 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2019/QĐXX ngày 09 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Minh T Giới tính: Nữ; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1993; Nơi cư trú: chợ V, xã V, huyện Đông Anh, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Họ tên bố: Bùi Minh T (đã chết); Họ tên mẹ: Phạm Thúy ; Sinh năm: 1973; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ nhất; Bị cáo có 01 con sinh năm 2011.

Tiền án, tiền sự: 02 tiền án:

- Ngày 13/4/2012, TAND huyện Đông Anh xử phạt 42 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý. Án số: 76/2012/HSST.

- Ngày 27/6/2012, TAND huyện Đông Anh xử phạt 36 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý. Tổng hợp hình phạt với bản án số 76/2012/HSST, buộc Trang chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 6 năm 6 tháng tù. Ra trại ngày 14/3/2017. Án số: 126/2012/HSST. Ra trại ngày 14/3/2017. Án chưa xoá.

Tạm giữ: 09/12/2018 Tạm giam: 18/12/2018

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 08/12/2018, tổ công tác Công an phường Cửa Đông làm nhiệm vụ trên địa bàn phát hiện Bùi Minh T và Nguyễn Quốc D (sinh năm: 1990; Trú tại: 195 Đ, phường Đ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) đang đứng tại vỉa hè vườn hoa Phùng Hưng đoạn đối diện quán bar số 119 Phùng Hưng, phường Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành theo dõi. Lúc này, T lấy điện thoại di động ra gọi, ngay sau đó có 01 nữ thanh niên đi bộ từ trong quán bar số 119 Phùng Hưng đến chỗ T trao đổi. Nghi vấn các đối tượng hoạt động mua bán trái phép chất ma túy nên tổ công tác đã tiến hành kiểm tra. Thấy vậy, đối tượng nữ thanh niên bỏ chạy, T đứng tại chỗ và thả từ trên tay trái xuống dưới đất (cách vị trí chân trái của T khoảng 20cm) 01 túi ni lông màu trắng. Tổ công tác tiến hành thu giữ và kiểm tra túi nilon màu trắng trên phát hiện bên trong đựng 01 túi nilông chứa tinh thể màu trắng và 08 viên nén hình tròn màu đỏ - tại chỗ T khai nhận là ma tuý tổng hợp đang mang đi bán kiếm lời. Kiểm tra đối tượng D không phát hiện gì liên quan đến chất ma tuý. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản và đưa các đối tượng về trụ sở Công an phường Cửa Đông để giải quyết.

Ngoài ra còn thu giữ của Bùi Minh T: 01 điện thoại di động màu trắng vàng kiểu dáng giống Iphone 5S lắp sim số: 0974220293.

Thu giữ của Nguyễn Quốc D: 01 điện thoại di động màu trắng kiểu dáng Iphone 4S đã qua sử dụng lắp sim số: 0972833388.

Tại bản kết luận giám định số 9336/KLGĐ-PC09 ngày 17/12/2018, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận số tang vật thu giữ của Bùi Minh T như sau: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma túy loại Ketamine, khối lượng: 1,405 gam; 08 viên nén hình tròn màu đỏ đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng: 2,512 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Minh T thay đổi lời khai, không thừa nhận số ma tuý bị thu giữ dưới đất là của T và khai: Sáng ngày 08/12/2018, một người bạn xã hội tên "Trang" (sinh năm 1987, quê ở Thái Nguyên) đến nhà Minh T chơi. Khoảng 20 giờ cùng ngày, cả hai đi xe taxi đến nhà Nguyễn Quốc D (bạn trai T) chơi. Quá trình đi xe taxi "Trang" mượn điện thoại của Bùi Minh T để nhắn tin trao đổi với một người lạ (không rõ danh tính). Sau đó "Trang" bảo Minh T đến quán Bar Up số 119 Phùng Hưng gọi cho số lưu trong danh bạ là "119 Phùng Hưng" và dặn nếu người đó đưa cho cái gì thì cầm lấy mang về hộ "Trang". Khi xe đi đến phố Đại Cồ Việt thì "Trang" xuống xe, Minh T tiếp tục ngồi trên xe taxi đến nhà Dũng và rủ Dũng đi cùng lên quán Bar để chơi. Khi đến gần quán Bar số 119 Phùng Hưng, T lấy điện thoại ra gọi vào số lưu tên là „„119 Phùng Hưng‟‟, một lúc sau có một nữ thanh niên đến gặp T và D. Lúc này người nữ thanh niên trên đưa cho T 01 túi nilông màu trắng, T chưa kịp nhận túi nilông thì nữ thanh niên đã bỏ chạy, còn T và D thì bị bắt giữ như đã nêu trên. T không biết trong túi nilông đó là gì và không thừa nhận việc trao đổi mua bán ma tuý với nữ thanh niên đã chạy thoát.

Ngày 17/12/2018, Bùi Minh T thay đổi và khai: Khi đi trên xe taxi, đối tượng “Trang” nhờ Minh T mang ma túy đi bán cho khách ở quán Bar số 119 Phùng Hưng với thỏa thuận Minh T sẽ nhận được số tiền công 200.000 đồng từ “Trang”. Minh T đồng ý, “Trang” đưa ma tuý cho Minh T cùng số điện thoại của người mua ma tuý rồi xuống xe. Minh T cầm ma tuý rồi đi tiếp đến nhà Dũng rủ lên quán bar chơi. Sau đó, cả hai đi đến vườn hoa Phùng Hưng, T gọi điện cho người mua ma tuý rồi đứng chờ. Khoảng 5 phút sau có một người phụ nữ đi từ trong quán bar ra gặp T để trao đổi. Ngay lúc đó lực lượng công an đã tiến hành kiểm tra, do lo sợ nên T đã thả ma túy từ lòng bàn tay trái xuống đất.

Ngày 22/02/2019, Bùi Minh T tiếp tục thay đổi lời khai như sau: Khoảng 19 giờ ngày 08/12/2018, một người phụ nữ (không rõ lai lịch) nhắn tin cho T từ số thuê bao 0994751111 (tên hiển thị lưu trong danh bạ điện thoại của T là “119 Phùng Hưng”) hỏi mua 08 viên ma túy “Kẹo” và 01 chỉ ma túy “Ketamine”. T đồng ý và báo giá tổng số tiền mua ma túy là 7.100.000 đồng. Hai bên thỏa thuận địa điểm giao dịch mua bán ma túy tại quán Bar số 119 Phùng Hưng, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Khoảng 20 giờ cùng ngày, T đi xe taxi đi một mình từ nhà đến ngõ Tây Kết ở đường đê Nguyễn Khoái, Hà Nội gặp một người đàn ông không quen biết mua 08 viên “Kẹo” và 01 chỉ ma túy “Ketamine” với giá 6.400.000 đồng. Sau đó, T cầm số ma túy đã mua ở trong lòng bàn tay trái rồi bắt taxi đến nhà Nguyễn Quốc D rủ D đến quán Bar số 119 Phùng Hưng chơi cùng T. Đến nơi, T bảo D đứng đợi ở vườn hoa Phùng Hưng đối diện với quán Bar còn T gọi điện thoại cho người phụ nữ hỏi mua ma túy của T để tiến hành giao dịch. Tuy nhiên chưa kịp bán ma túy cho người phụ nữ trên thì T bị Tổ công tác kiểm tra và phát hiện như đã nêu trên. T khai Dũng không biết cũng không liên quan đến việc mua bán ma túy của T.

Về một số nội dung tin nhắn và zalo trong máy điện thoại thu giữ của T có nghi vấn liên quan đến hoạt động mua bán trái phép chất ma tuý, T khai là các mối quan hệ xã hội và chưa thực hiện giao dịch mua bán ma tuý.

Nguyễn Quốc D khai nhận phù hợp với lời khai của Bùi Minh T. Khi bị tổ công tác kiểm tra, D thấy T thả 01 túi ni lông từ trong lòng bàn tay trái xuống đất cách chỗ T đang đứng khoảng 20 cm. D không biết việc T mang ma túy đi bán. Quá trình điều tra xác định D có đi cùng T nhưng không tham gia vào việc mua bán ma túy của T. Hành vi của Nguyễn Quốc D chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Cơ quan điều tra không xử lý. Về chiếc điện thoại di động màu trắng kiểu dáng Iphone 4S đã qua sử dụng lắp sim số: 0972833388, xét thấy không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trao trả lại cho D chiếc điện thoại di động trên. D đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì.

Anh Nguyễn Văn T là bảo vệ trông xe tại quán Bar 119 Phùng Hưng khai nhận phù hợp với lời khai của D như nêu trên. Anh T trực tiếp nhìn thấy T thả từ trên tay trái xuống dưới đất (cách vị trí chân trái của T khoảng 20cm) 01 túi ni lông màu trắng đựng vật gì đó. Sau khi Tổ công tác nhặt lên kiểm tra, anh T lại gần xem và thấy bên trong túi có 08 viên nén hình tròn màu nâu đỏ và 01 túi ni lông bên trong chứa tinh thể màu trắng – tại chỗ T khai là ma túy đang mang đi bán cho khách.

Về đối tượng nam bán ma túy cho Bùi Minh T, do T khai không biết rõ tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có điều kiện xác minh làm rõ.

Cơ quan điều tra đã tiến hành rút list số điện thoại 0994751111 của người phụ nữ hỏi mua ma tuý nhưng không xác định được chủ thuê bao nên không có điều kiện xác minh làm rõ.

Bản cáo trạng số 53/CT-VKS ngày 14 tháng 3 năm 2019, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố bị cáo Bùi Minh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra và công nhận nội dung bản cáo trạng đã truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự là đúng.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm giữ nguyên quan điểm đã truy tố, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đề nghị áp dụng khoản 1 điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự kết tội bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 42 tháng đến 48 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Về hành vi: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo Bùi Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đồng thời căn cứ vào bản Kết luận giám định số 9336/KLGĐ-PC09 ngày 17/12/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Ketamine, khối lượng 1, 405 gam; 08 viên nén hình tròn màu đỏ mà ma túy loại MDMA, tổng khối lượng: 2,512 gam. Từ đó có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 23 giờ 00‟ ngày 08/12/2018, Bùi Minh T đã có hành vi bán ma túy kiếm lời nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện bắt giữ tại vỉa hè vườn hoa Phùng Hưng, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo T có 02 tiền án về tội Mua bán trái phép chất ma túy (chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/3/2017), chưa được xóa án tích.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo T được áp dụng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo T bị áp dụng tình tiết tăng nặng tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Hành vi mua ma túy nhằm để bán kiếm lời của bị cáo là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Việc mua bán trái phép chất ma túy đã làm gia tăng các tệ nạn xã hội, là nguyên nhân gây ra nhiều hệ quả xấu về kinh tế và trật tự an toàn xã hội. Bị cáo đã từng phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, nhận thức được hậu quả của hành vi phạm tội và đường lối xử lý nghiêm minh của pháp luật đối với loại tội phạm này nhưng vẫn phạm tội với lỗi cố ý, bởi vậy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét đến tình tiết bị cáo thành khẩn khai báo để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Về tang vật: Số ma túy thu giữ của bị cáo là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 5S màu trắng vàng; Tịch thu tiêu hủy: 01 sim điện thoại.

Bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt tiền theo khoản 5 điều 251 - Bộ luật hình sự.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bùi Minh T phạm tội Mua bán trái phép chất ma tuý.

2. Áp dụng:

+ Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự;

+ Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

3. Xử phạt: Bùi Minh T 03 (ba) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2018.

Bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 điều 251 Bộ luật hình sự.

4. Tang vật:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong có 08 viên nén hình tròn màu đỏ đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng 2,512 gam (đã trích mẫu giám định 0,637 gam, còn lại 1,875 gam); 01 túi nilong chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Ketamine có khối lượng 1,405 gam (đã trích mẫu giám định 0,218 gam, còn lại 1,187 gam) và 01 sim điện thoại.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động màu trắng vàng kiểu dáng Iphone 5S.

Tang vật hiện đang giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 21/03/2019.

5. Án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:75/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về