Bản án 75/2019/HS-ST ngày 18/07/2019 về tội chống người thi hành công vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 75/2019/HS-ST NGÀY 18/07/2019 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 18 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí - tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 61/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2019 đối với:

Bị cáo: Bùi Văn N, sinh ngày 28 tháng 01 năm 1990 tại Uông Bí - Quảng Ninh. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: tổ 2, khu H, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn V và bà Đỗ Thị M; có vợ là Nguyễn Thị Hồng N, có 02 con (lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 06/6/2019, bị cáo bị Công an thành phố U, tỉnh Quảng Ninh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “đánh nhau”. Bị cáo bị tạm giữ ngày 18- 4-2019 và tạm giam ngày 24- 4-2019, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Việt C, sinh năm 1996.

Nơi cư trú: Tổ 4, khu 9, phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

2. Anh Đinh Văn T, sinh năm 1996.

Nơi cư trú: Tổ 1, khu B, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Trung T, Vũ Ngọc T, Nguyễn Mạnh Đ, Phạm Đình L, Ngô Minh T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 17/4/2019, Bùi Văn N và các anh Nguyễn Mạnh Đ, Phạm Đình L, Vũ Ngọc T, đều trú tại phường P, thành phố U, đến hát tại quán Karaoke Vạn Xuân ở tổ 2, khu H, phường P, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Khoảng 30 phút sau, N một mình sang phòng hát cuối dãy để mời bia. Do mọi người không uống nên giữa N và nhóm người trong phòng (hiện không xác định được lai lịch, địa chỉ) xảy ra mâu thuẫn, xô xát, đánh nhau. Thấy vậy, anh Nguyễn Trung T (chủ quán “V”) đã gọi điện báo tin cho Công an phường P, thành phố Uông Bí. Nhận được tin, anh Ngô Minh T – Phó trưởng Công an phường P, chỉ đạo anh Đinh Văn T và anh Nguyễn Việt C – cán bộ Công an phường P đang trực ngày hôm đó đi xác minh làm rõ. Khi đi, cả hai anh đều mặc trang phục ngành theo đúng quy định. Đến quán Karaoke “V”, anh T và anh C vào gặp anh T để nắm tình hình, thì Bùi Văn N đi đến. Anh T giới thiệu mình và anh C là cán bộ Công an phường và hỏi N nội dung sự việc xảy ra. N liền chửi bới, đồng thời dùng chân đạp vào người anh T và anh C. Anh T điện thoại cho anh T báo cáo tình hình và cử lực lượng tăng cường. Sau đó, N tiếp tục có hành vi chửi bới anh T và anh C, thì bị anh T và anh C phối hợp với Công an thành phố U bắt quả tang.

Sau khi xảy ra vụ việc, Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra dấu vết trên cơ thể anh Nguyễn Việt C và anh Đinh Văn T, phát hiện phía trước đùi trái quần dài (quần lực lượng cảnh sát nhân dân) của anh C có bám dính chất dạng bụi màu vàng diện tích là (20 × 10) cm, của anh T có bám dính chất dạng bụi màu vàng diện tích là diện tích là (11 × 16) cm. Ngoài ra, không phát hiện dấu vết gì khác.

Qúa trình điều tra, anh C và anh T từ chối giám định thương tích, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường dân sự.

Ngày 18/4/2019, chị Từ Thị Q (vợ anh T) giao nộp cho cơ quan Công an 01 chiếc đĩa DVD-R, bên trong có chứa đoạn video thể hiện nội dung Bùi Văn N chống người thi hành công vụ tối ngày 17/4/2019.

Tại bản Cáo trạng số 72/CT-VKSUB ngày 18 - 6- 2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố bị cáo Bùi Văn N về tội “Chống người thi hành công vụ”, theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự.

Đối với hành vi xô xát, đánh nhau của Bùi Văn N tại quán karaoke “Vạn Xuân” chưa đủ căn cứ để xử lý hình sự, Công an thành phố U đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận trong lúc hát karaoke tại quán V, bị cáo có sử dụng bia rượu dẫn đến việc có xô xát với một nhóm thanh niên tại đây, khi cán bộ công an phường P là anh C, anh T đến giải quyết sự việc thì bị cáo đã có hành vi chửi bới và đạp vào người hai cán bộ này; bị cáo thừa nhận có hành vi vi phạm pháp luật như tóm tắt nội dung vụ án đã nêu và bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố đúng người, đúng tội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – anh Nguyễn Việt C, Đinh Văn T trình bày diễn biến của sự việc diễn ra vào tối ngày 17/4/2019 tại quán Karaoke V như lời khai trong quá trình điều tra và giữ nguyên quan điểm không yêu cầu bị cáo phải bồi thường dân sự.

Người làm chứng các anh Nguyễn Trung T, Vũ Ngọc T, Nguyễn Mạnh Đ, Phạm Đình L, Ngô Minh T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai trong hồ sơ thể hiện thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo (tại bút lục từ 49 -51, 58-73).

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt: Áp dụng: khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: bị cáo Bùi Văn N mức hình phạt từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ.

Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Đối với 02 chiếc quần là trang phục của lực lượng vũ trang nhân dân đã được cơ quan điều tra trả lại cho anh Nguyễn Việt C và anh Đinh Văn T.

Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không tranh luận với lời luận tội của Viện kiểm sát. Tại lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng: Những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Do đó, các chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt:

2.1 Về tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và nội dung Biên bản bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ và bản ảnh hiện trường, biên bản xem xét dấu vết trên thân thể, vật chứng thu giữ cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 45 phút ngày 17/4/2019, tại quán Karaoke V ở tổ 2, khu H, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Bị cáo Bùi Văn N đã xô xát với một số người trong quán hát. Khi anh Đinh Văn T và anh Nguyễn Việt C là Công an phường P đến xác minh tin báo, giữ gìn trật tự thì N đã có hành vi cản trở, chửi bới và dùng chân đạp vào người anh T và anh C.

Bị cáo là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự; thực hiện hành vi do lỗi cố ý thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn của các cơ quan quản lý Nhà nước, của cán bộ, công chức và những người được giao nhiệm vụ, công vụ. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố và kết luận về tội danh, hình phạt đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

2.2. Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ xâm phạm đến hoạt động công vụ của các cán bộ Công an đang làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự, an toàn xã hội mà còn làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo đã sử dụng rượu bia, đánh nhau, gây mất trật tự tại quán Karaoke V nhưng khi các cán bộ công an đến giải quyết, xác minh sự việc, bị cáo không phối hợp, tuân thủ mà còn có hành vi chống đối, dùng lời nói, vũ lực đe dọa cán bộ làm nhiệm vụ. Vì vậy, xét về mức độ nguy hiểm, tính chất của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thấy rằng cần phải có hình phạt nhất định, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân và cũng như để phòng ngừa, đấu tranh tội phạm chung.

[3] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; không có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bố đẻ bị cáo là người có công với cách mạng được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Nhì, Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng Ba. Trước khi phạm tội, bản thân bị cáo luôn chấp hành tốt các chính sách pháp luật của địa phương (có giấy xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường P, thành phố U – nơi bị cáo cư trú). Vì vậy, bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo phải bồi thường dân sự nên không đề cập giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng: 02 chiếc quần dài màu xanh, là trang phục Cảnh sát nhân dân đã được Cơ quan điều tra - Công an thành phố Uông Bí trả lại cho anh Nguyễn Việt C và anh Đinh Văn T theo Quyết định xử lý vật chứng và biên bản việc trả lại đồ vật ngày 30/5/2019.

[6] Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ: khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 - Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn N phạm tội: “Chống người thi hành công vụ”.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn N 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 18-4-2019.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, danh mục án phí Toà án của Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Bùi Văn N phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

3. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2019/HS-ST ngày 18/07/2019 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:75/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về