Bản án 75/2018/HSST ngày 23/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 75/2018/HSST NGÀY 23/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23/11/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Binh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 69/2018/HSST ngày 31 tháng 10 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2018/QĐXX- HSST ngày 08/11/2018, thông báo mở phiên Tòa số 01/2018/TB- MPT ngày 20/11/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn N, sinh ngày 10/5/1988.

Nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.

Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Trình độ văn hóa: 01/12.

Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo : Không.

Họ và tên bố: Phạm Văn B (Đã chết). Họ và tên mẹ: Tạ Thị Q, sinh năm 1965. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ 2. Vợ: Trần Thị T, sinh năm 1987. Bị cáo có hai con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2018.

Tiền sự: Không. Tiền án: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/7/2018 đến ngày 30/7/2018, sau đó chuyển tạm giam (Bị cáo có mặt tại phiên Tòa).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Tạ Thị Q, sinh năm 1965, nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. (Vắng mặt tại phiên Tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên Tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 10 giờ ngày 27/7/2018, Phạm Văn N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát: 17M8 -4984 đi từ nhà đến khu vực ngã tư chợ C thuộc địa phận Thôn D, xã C, huyện Tiền Hải, mục đích là để mua ma túy về sử dụng. Tại đây, N gặp một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, địa chỉ và hỏi người đàn ông “ Có bán hàng không, bán cho tôi 100.000 đồng”, N đưa cho người đàn ông tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, người đàn ông này nhận tiền và đưa lại cho N một gói ma túy bên ngoài được gói bằng giấy tráng kim mà u trắng, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, biết là ma túy, N cầm và cho vào túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi điều khiển xe đi về hướng nghĩa trang thôn D, xã C để sử dụng. Khi đến đoạn đường đê gần Nghĩa trang thôn D thì bị Công an huyện Tiền Hải phát hiện N có dấu hiệu vi phạm pháp luật nên yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Sau khi được giải thích, N thừa nhận đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Công an huyện Tiền Hải đã dẫn giải N và mời những người làm chứng về Ủy ban nhân dân xã C, huyện Tiền Hải để làm việc. Tại đây, N đã tự giác lấy trong túi quần phía trước bên phải đang mặc một gói ma túy bên ngoài được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng ra giao nộp. Công an huyện Tiền Hải đã lập biên bản b ắt người phạm tội quả tang, biên bản quản lý niêm phong vật chứng. Khám xét khẩn cấp nhà ở của Phạm Văn N nhưng không phát hiện và thu giữ gì thêm.

Bản kết luận giám định số 305/KLGĐ – PC- 54 ngày 27/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Mẫu M gửi giám định thu của Phạm Văn N là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng là 0,1226 gam. Bản cáo trạng số 75/KSĐT ngày 29/10/2018 Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải đã truy tố bị cáo Phạm Văn N về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ Heroine là trái pháp luật, bị nhà nước nghiêm cấm nhưng do bản thân bị cáo nghiện ma túy nên đã đi mua ma túy với mục đích để sử dụng và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu là đúng, bị cáo không khai thêm tình tiết mới.

Bị cáo xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay nhục hình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình luận tội và tranh luận:

Trong qúa trình điều tra, truy tố và tại phiên Tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Văn N theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38, điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phạm Văn N 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung và đề nghị xử lý vật chứng.

Bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo cải tạo trở thành người lương thiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Tiền Hải, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong qúa trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Văn N, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Văn N có trong hồ sơ vụ án và tại phiên Tòa hôm nay phù hợp với các chúng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Tiền Hải lập ngày 27/7/2018 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã C, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Các biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, biên bản xem xét dấu vết trên thân thể do Công an huyện Tiền Hải cùng ngày 27/7/2018 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện Tiền Hải, biên bản khám xét nhà ở, đồ vật của Phạm Văn N do Công an huyện Tiền Hải lập ngày 27/7/2018 tại gia đình nhà Phạm Văn N ở thôn Đông Biển N, xã B, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, bản kết luận giám định số 305/KLGĐ - PC54 ngày 27/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Mẫu M gửi giám định thu của Phạm Văn N là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1226 gam, lời khai của người làm chứng là ông Trần Minh Phùng, sinh năm 1959 và ông Đoàn Văn Muốn, sinh năm 1961, đều trú tại: Thôn Lộc Ninh, xã C, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đã đủ căn cứ khẳng định: Hồi 11 giờ 15 phút ngày 27/7/2018, tại đoạn đường đê gần nghĩa trang Thôn D thuộc địa phận thôn D, xã C, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, Công an huyện Tiền Hải đã phát hiện và bắt quả tang Phạm Văn N có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng là 0,1226 gam với mục đích để sử dụng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy. Ma túy là độc dược gây nghiện cao, người sử dụng ma túy bị lệ thuộc ma túy gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe làm suy thoái đạo đức lối sống, gây nên đại dịch HIV. Ma túy là nguyên nhân gây nên các tội phạm khác trong xã hội. Do vậy, Đảng và nhà nước ta cũng như toàn nhân loại kiên quyết đấu tranh nhằm loại trừ ma túy khỏi đời sống xã hội. Bị cáo N đã có hành vi cất giữ trong người một gói Heroine có khối lượng là 0,1226 gam với mục đích sử dụng. Như vậy, hành vi của bị cáo Phạm Văn N đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

[3]. Về tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của bị cáo: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự . Vì vậy, nên giảm cho bị cáo một phần hình phạt đồng thời thể hiện chính sách khoaB nhân đạo của nhà nước ta.

[4]. Từ những phân tích và đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Văn N cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm minh tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội cai được ma túy đồng thời có tác dụng phòng ngừa tội phạm chung.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”. Xét bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng không nhằm mục đích thu lợi bất chính và hơn nữa hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về nguồn gốc Heroine: Phạm Văn N khai mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, địa chỉ tại khu vực ngã tư chợ C thuộc thôn D, xã C, huyện Tiền Hải với giá 100.000 đồng. Do vậy, Cơ quan c ảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải không có đủ cơ sở điều tra, xác minh làm rõ người đã bán ma túy cho N để xử lý theo quy định của pháp luật.

[7]. Về vật chứng: Đối với số Heroine, Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo N còn lại sau khi giám định là 0,1105 gam và bao gói, cần áp dụng điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu, tiêu hủy là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, kiểu dáng Wave màu đen, biển kiểm soát 17M8 – 4984, giấy chứng nhận xe mang tên anh Tạ Quang Rinh, sinh năm 1962, nơi cư trú: Thôn Tam Bảo, xã B, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, bị cáo đã mượn chiếc xe trên của chị Tạ Thị Quí nhưng chị Quí không biết bị cáo sử dụng xe của chị để đi tàng trữ trái phép chất ma túy nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận Cơ quan điều tra lại cho chị Tạ Thị Quí là người quản lý hợp pháp chiếc xe trên là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8]. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn N phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9].Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Về hình phạt: Áp dụng: điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38, điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn N 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/7/2018.

3. Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy số Heroine thu được của bị cáo Phạm Văn N còn lại sau khi giám định là 0,1105 gam và bao gói.

- Chấp nhận cơ quan điều tra Công an huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình trả lại cho chị Tạ Thị Qúi, sinh năm 1965, nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình là người quản lý hợp pháp một chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, kiểu dáng Wave màu đen, biển kiểm soát 17M8 -4984. (Toàn bộ số vật chứng trên Cơ quan điều tra Công an huyện Tiền Hải đã chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình có đặc điểm mô tả như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2018).

4. Về án phí: Áp dụng điều 135, điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Văn N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Văn N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Tạ Thị Quí có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2018/HSST ngày 23/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:75/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về