TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 75/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 211/2018/TLST- HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 739/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 774/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị N; nơi ĐKHKTT: Số 3/211C đường L, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Số 59/18/83 đường P, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Bị đơn: Anh Cao Thanh B; nơi ĐKHKTT: Số 3/211C đường L, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Số 282A đường L, phường K, quận L, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 14 tháng 01 năm 2018, bản tự khai, quá trình giải quyết tại Tòa án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Đỗ Thị N trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Năm 2002, chị và anh Cao Thanh B lấy nhau trên cơ sở tự nguyện, gia đình hai bên có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán Việt Nam, có đăng ký kết hôn ngày 16 tháng 01 năm 2002 tại Uỷ ban nhân dân phường Đồng Quốc Bình, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian ngắn, đến khoảng cuối năm 2002 thì phát sinh mâu thuẫn. Ban đầu chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nhưng dần dần mâu thuẫn càng lớn hơn. Nguyên nhân chủ yếu do anh B thường xuyên chửi bới, xúc phạm chị, không có ý thức xây dựng gia đình. Đến năm 2016, mâu thuẫn quá căng thẳng, chị N đã bỏ đi ra ngoài thuê nhà sống và làm thủ tục ly hôn với anh B. Tại bản án số 02/2017/HNGĐ-ST ngày 05 tháng 01 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã xử không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị do xác định mâu thuẫn giữa chị và anh B chưa đến mức trầm trọng, cần tạo điều kiện để hai bên cải thiện tình cảm. Không đồng ý với bản án trên, chị N đã kháng cáo và tại bản án số 07/2017/HNGĐ-ST ngày 05/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị.
Đến nay đã hơn một năm kể từ ngày Tòa án bác đơn xin ly hôn của chị nhưng quan hệ giữa chị và anh B vẫn không cải thiện được, vợ chồng vẫn sống ly thân từ năm 2016, tình cảm vợ chồng hoàn toàn không có khả năng hàn gắn. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị tiếp tục đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Cao Thanh B.
Về việc nuôi con: Chị và anh Cao Thanh B có hai con chung là Cao Diệp Anh, sinh ngày 06 tháng 10 năm 2003 và Cao Nguyệt Minh, sinh ngày 21 tháng 9 năm 2012. Khi ly hôn chị đề nghị được nuôi cả hai con. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về việc chia tài sản: Chị và anh Cao Thanh B không có tài sản chung, không yêu cầu Toà án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Cao Thanh B đã được Tòa án đến tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo địa chỉ phòng 402 tầng 4 nhà M4 khu chung cư 09 tầng, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng nhưng khi Tòa án đến tống đạt anh Cao Thanh B đều không có ở nhà. Việc tống đạt trực tiếp không thực hiện được nên Tòa án phải niêm yết các thông báo trên. Tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, anh B đều vắng mặt không có lý do chính đáng nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và không lấy được lời khai của anh Cao Thanh B.
Ngày 01 tháng 10 năm 2018, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền đã tiến hành xác minh và xác định anh Cao Thanh B đã tạm trú tại địa chỉ số 282A đường L, phường K, quận L, thành phố Hải Phòng từ ngày 21 tháng 6 năm 2018. Tòa án tiếp tục gửi các thông báo, quyết định cho anh Cao Thanh B đến địa chỉ này nhưng việc tống đạt trực tiếp không thực hiện được nên Tòa án phải niêm yết các thông báo trên.
Tòa án đã thu thập chứng cứ đối với gia đình về quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị N và anh Cao Thanh B, thể hiện chị Đỗ Thị N, anh Cao Thanh B có mâu thuẫn do anh chị không hợp nhau về tính cách, bất đồng quan điểm sống. Anh B đã nhiều lần chửi bới, đánh đập chị N gây thương tích và đề nghị Tòa án căn cứ theo quy định của pháp luật để giải quyết. Gia đình đều xác nhận chị N và anh B có hai con chung là Cao Diệp Anh, sinh ngày 06 tháng 10 năm 2003 và Cao Nguyệt Minh, sinh ngày 21 tháng 9 năm 2012 và không có tài sản chung.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết từ giai đoạn thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn tuân thủ đúng quy định của pháp luật; bị đơn anh Cao Thanh B không chấp hành quy định của pháp luật về việc có mặt tại phiên tòa lần thứ nhất và phiên tòa lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên đề nghị Hội đồng xét xử xử vắng mặt anh Cao Thanh B theo quy định điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng có quan điểm: Mâu thuẫn của chị Đỗ Thị N và anh Cao Thanh B đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56 và các điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị định số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị N, cho chị Đỗ Thị N được ly hôn anh Cao Thanh B; về việc nuôi con: Chị Đỗ Thị N và anh Cao Thanh B có hai con chung là Cao Diệp Anh, sinh ngày 06 tháng 10 năm 2003 và Cao Nguyệt Minh, sinh ngày 21 tháng 9 năm 2012. Do cháu Cao Diệp Anh có nguyện vọng muốn ở với mẹ, cháu Cao Nguyệt Minh còn nhỏ, cần sự chăm sóc của mẹ nên giao cả hai con cho chị N trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Đỗ Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết; về án phí: Chị Đỗ Thị N phải nộp án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng dân sự:
+ Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:
[1] Đây là quan hệ pháp luật về ly hôn, tranh chấp về nuôi con được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Cao Thanh B tại thời điểm thụ lý cư trú tại địa bàn quận Ngô Quyền (phòng 402 tầng 4 nhà M4 khu chung cư 09 tầng, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng) nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về thời hạn giải quyết vụ án:
[2] Ngày 30 tháng 5 năm 2018, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng thụ lý vụ án; đến ngày 23 tháng 10 năm 2018, Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, Tòa án đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về sự vắng mặt của bị đơn:
[3] Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn anh Cao Thanh B vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung:
+ Về quan hệ hôn nhân:
[4] Quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị N và anh Cao Thanh B có đăng ký kết hôn ngày 16 tháng 01 năm 2002 tại Ủy ban nhân dân phường Đồng Quốc B, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.
[5] Quá trình vợ chồng chị Đỗ Thị N và anh Cao Thanh B chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2002 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu do vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống, không có tiếng nói chung. Đến năm 2016, do mâu thuẫn quá căng thẳng, chị N đã bỏ đi ra ngoài thuê nhà sống và làm thủ tục ly hôn với anh B nhưng đã bị hai cấp xét xử không chấp nhận đơn xin ly hôn để vợ chồng có cơ hội hàn gắn tình cảm. Đến nay đã hơn một năm kể từ ngày chị bị Tòa án bác đơn xin ly hôn nhưng quan hệ giữa chị và anh B vẫn không cải thiện được, vợ chồng vẫn sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Xét mâu thuẫn giữa chị Đỗ Thị N và anh Cao Thanh B đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đỗ Thị N.
+ Về việc nuôi con:
[6] Chị Đỗ Thị N và anh Cao Thanh B có hai con là Cao Diệp Anh, sinh ngày 06 tháng 10 năm 2003 và Cao Nguyệt Minh, sinh ngày 21 tháng 9 năm 2012. Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu Cao Diệp Anh có nguyện vọng muốn ở với mẹ, cháu Cao Nguyệt Minh còn nhỏ, cần sự chăm sóc của mẹ, chị N có đủ điều kiện kinh tế để nuôi hai con nên giao cả hai con cho chị N trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Đỗ Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
+ Về việc chia tài sản:
[7] Chị Đỗ Thị N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
- Về án phí:
[8] Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Đỗ Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo:
[9] Chị Đỗ Thị N và anh Cao Thanh B được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của chị Đỗ Thị N.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị N được ly hôn anh Cao Thanh B.
2. Về việc nuôi con: Giao cả hai con Cao Diệp Anh, sinh ngày 06 tháng 10 năm 2003 và Cao Nguyệt Minh, sinh ngày 21 tháng 9 năm 2012 cho chị Đỗ Thị N nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Đỗ Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về việc chia tài sản: Chị Đỗ Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Chị Đỗ Thị N phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0014631 ngày 24 tháng 5 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chị Đỗ Thị N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo đối với bản án:
Chị Đỗ Thị N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Anh Cao Thanh B được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 75/2018/HNGĐ-ST ngày 28/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 75/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về