Bản án 75/2017/HS-ST ngày 23/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 75/2017/HS-ST NGÀY 23/11/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 23 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Lức tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 78/2017/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2017/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

Lâm Tấn T, tên gọi khác: Không, sinh năm 1993 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi cư trú: Ấp 6, xã L, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Quốc C (chết) và bà Lâm Ngọc L; bản thân có vợ tên Nguyễn Thị T; có 01 người con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn S, Luật sư thuộc Chi nhánh số 1 Công ty Luật TNHH A.B.C, Đoàn Luật sư tỉnh Long An bào chữa cho bị cáo Lâm Tấn T.

- Bị hại: Bà Nguyễn Kim L (đã chết)

Người đại diện hợp pháp của bà Nguyễn Kim L: Ông Trần Đức T, sinh năm 1964

Nơi cư trú: Ấp 3, xã T, huyện B, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 ngày 31/5/2017, Lâm Tấn T có giấy phép lái xe theo quy định điều khiển xe mô tô biển số 59N2-866.07 có đèn chiếu sáng phía trước có hiệu lực, lưu thông trên phần đường bên phải Hương lộ 10 (HL10) hướng Quốc lộ 1A (QL1A) đi đường tỉnh 830C (ĐT830C). Khi đến Km01+, HL10 thuộc ấp 7A, xã Mỹ Yên, huyện Bến Lức, tỉnh Long An, lúc này trời tối, mặt đường nhựa khô ráo, hai bên đường không có đèn chiếu sáng công cộng, giữa trung tim đường có vạch sơn màu trắng không liên tục chia làm 02 chiều đường chạy xe, bị cáo Tài điều khiển xe với tốc độ khoảng 60km/h bằng tay phải, tay trái lấy điện thoại trong túi quần ra nghe điện thoại do vợ của bị cáo Tài là Nguyễn Thị T gọi đến. Sau khi nghe điện thoại xong, bị cáo Tài bỏ điện thoại lại túi quần bên trái, nhưng do túi quần chật bị cáo Tài liền nhìn xuống túi quần bỏ điện thoại vào. Khi bỏ điện thoại vào túi quần xong, Tài nhìn về phía trước phát hiện phía trước cùng chiều khoảng 01m có xe đạp không có đèn chiếu sáng trước và sau do Nguyễn Kim L điều khiển, do khoảng cách quá gần bị cáo Tài xử lý không kịp nên phần đầu xe mô tô biển số 59N2-866.07 va chạm vào đuôi xe đạp ngay phần đường bên phải đường HL10 hướng đi ĐT 830C cách mép lề phải 1,9m làm Nguyễn Kim L, Lâm Tấn T và 02 xe té ngã trên đường, gây ra tai nạn giao thông. Hậu quả Nguyễn Kim L chết tại hiện trường.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 203/TT ngày 02/3/2017 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế Long An kết luận nguyên nhân Nguyễn Kim L tử vong do bị chấn thương sọ não nặng.

Biên bản khám nghiệm hiện trường: Lúc 20 giờ 00 ngày 31/5/2017, tại Km01+, đường HL10 thuộc ấp 7A, xã M, huyện Bến Lức do Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Lức thể hiện:

- Lúc xảy ra tai nạn trời tối, hiện trường còn nguyên vẹn; đoạn đường xãy ra tai nạn được trãi nhựa bằng phẳng, có hai chiều xe chạy riêng biệt được ngăn cách bởi vạch sơn trắng đứt quãng ở giữa, chiều đường hướng QL1A-830C có chiều rộng 3,8m, chiều đường hướng ngược lại rộng 3,2m; chiều đường hướng QL1A-830C có 01 vũng nước có kích thước dài 24m x 2,1m.

- Lấy số nhà 25 ấp 7A, xã M, huyện B làm điểm mốc và lấy mép đường bên phải chiều đường hướng QL1A-ĐT830C làm mép đường chuẩn để đo các vị trí dấu vết phương tiện.

- Nạn nhân ký hiệu (1) nằm ngữa đã chết, đầu nạn nhân (1) hướng vào mép đường chuẩn đo từ đỉnh đầu nạn nhân (1) vào mép đường chuẩn là 3,3m, đo từ giữa hai chân nạn nhân (1) vào mép đường chuẩn là 4,9m.

- Xe đạp ký hiệu (2): Nằm ngã nghiêng sang phải, đầu xe (2)  đường tỉnh 830C, đo từ trục sau xe (2) đến giữa hai chân nạn nhân (1) là 3,3m, đo từ trục sau xe (2) vô mép đường chuẩn là 6,4m, đo từ trục trước xe (2) vô mép đường chuẩn là 6,3m.

- Đồng hồ đo tốc độ của xe mô tô ký hiệu (3) nằm nơi mép đường chuẩn đo từ tâm đến đỉnh đầu của nạn nhân (1) là 4,4m.

- Vết máu ký hiệu (4) có kích thước 0,3mx0,4m đo từ tâm vết máu vô mép đường chuẩn là 0,7m đo từ tâm vết máu (4) đến mặt đồng hồ đo tốc độ của xe mô tô (3) là 9,2m.

-Vết cày ký hiệu (5) dài 15,5m, đầu vết cày trùng với mép đường chuẩn, đo từ đầu vết cày (5) đến tâm vết máu (4) là 1,1m, cuối vết cày (5) trùng với gác để chân trước bên phải của xe mô tô (6).

- Xe mô tô biển số 59N2-866.07 ký hiệu (6) nằm ngã nghiêng sang phải, đầu xe (6) hướng QL1A, đo từ trục trước xe (6) về mép đường chuẩn là 1m, đo từ trục sau xe (6) vô mép đường chuẩn là 0,7m, đo từ trục sau xe (6) đến số nhà 25 làm điểm mốc là 8,3m.

- Vũng nước ký hiệu (7) có kích thước 24mx2,1m.

Biên bản khám nghiệm phương tiện xe đạp, thể hiện: Gấp trước thụng về sau lệch về bên phải; đầu tay cầm bên phải xe bị mài mòn; đầu tay thắng bên phải xe bị mài mòn; đầu bàn đạp bên phải xe bị mài mòn; vành bánh sau bị gãy biến dạng; vỏ, ruột sau bị bể rời khỏi vành xe; nan hoa bị gãy rời; chắn bùn sau bị cong móp biến dạng thụng về trước; yên sau bị cong, thụng biến dạng về trước lệch về bên phải.

Biên bản khám nghiệm phương tiện xe mô tô biển số 59N2-866.07, thể hiện: Toàn bộ phần đấu xe bị bể rớt rời khỏi xe; cổ xe bị gãy rời khỏi thân xe; mặt nạ trước bị bể có dính vết sơn màu đen; chắn bùn trước bị gãy bễ; ốp hong bên phải và bên trái xe bị bể; vành bánh trước bị thụng móp kim loại vào trong có kích thước 1cmx5cm; chân thắng bị cong lệch về bên trái; mặt ngoài bộ phận giảm thanh bị mày mòn.

Tại cáo trạng số 84/QĐ-KSĐT ngày 07-11-2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức truy tố Lâm Tấn T về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 202 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức trong phần luận tội đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo xuất thân từ thành phần nhân dân lao động, mới phạm tội lần đầu, đã thật thà khai báo, biết ăn năn hối cải, bị cáo đã khắc phục xong hậu quả, hiện hoàn cảnh gia đình bị cáo gặp khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, gia đình bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và có đơn bãi nại nên xem xét giảm cho bị cáo một phần về hình phạt. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lâm Tấn T phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 45, Điều 60 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lâm Tấn T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm.

Về trách nhiệm dân sự: Sau tai nạn xảy ra, bị cáo Lâm Tấn T đã thỏa thuận bồi thường chi phí mai táng, tổn thất tinh thần, nuôi con nhỏ và các chi phí khác cho ông Trần Đức T đại diện gia đình bị hại Nguyễn Kim L với số tiền là 100.000.000đ, hiện ông T đã nhận tiền xong, không có yêu cầu gì thêm và có đơn yêu cầu bãi nại nên không đề cập đến.

Về vật chứng

- 01 xe  đạp của Nguyễn Kim L, hiện Cơ quan điều tra đã trả lại cho đại diện của bị hại ông Trần Đức T là phù hợp.

- 01 xe mô tô biển số 59N2-866.07 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe 59N2-866.07 thuộc sở hữu của Lâm Tấn T, hiện Cơ quan điều tra đã trả lại cho Tài là phù hợp.

- 01 giấy phép lái xe mang tên Lâm Tấn T nên đề nghị áp dụng Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự hoàn trả lại cho bị cáo là phù hợp.

(Tang vật trên hiện Tòa án nhân dân huyện Bến Lức đang tạm giữ).

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi của mình đúng như cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đã nêu. Bị cáo không tranh luận. Đại diện hợp pháp của bị hại không tranh luận.

Luật sự bào chữa cho bị cáo đưa ra những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải, đã bồi thường, khắc phục hậu quả, gia đình bị cáo gặp khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, chưa có tiền án, tiền sự, khi tai nạn xảy ra bản thân bị cáo cũng bị thương tích nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Lức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và đại diện gia đình người bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của đại diện gia đình người bị hại, bị đơn dân sự và các chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập được như Bản kết luận giám định pháp y về tử thi, biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản khám xe được thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở đã khẳng định bị cáo Lâm Tấn T có giấy phép lái xe theo quy định, khi điều khiển phương tiện giao thông tham gia lưu thông trên đường, bị cáo không chấp hành triệt để luật giao thông đường bộ nên khoảng 20 giờ 00 ngày 31/5/2017, Lâm Tấn T điều khiển xe mô tô biển số 59N2-866.07 có đèn chiếu sáng phía trước có hiệu lực, lưu thông phần đường bên phải HL10 hướng QL1A đi ĐT 830C. Khi đến Km01+, đường HL10 thuộc ấp 7A, xã M, huyện B, bị cáo T điều khiển xe tốc độ khoảng 60km/h, cùng lúc đó phía trước cùng chiều khoảng 01m có xe đạp do Nguyễn Kim L điều khiển, do bị cáo T không chú ý quan sát phía trước nên phần đầu xe mô tô biển số 59N2-866.07 va chạm vào đuôi xe đạp ngay phần đường bên phải HL10 hướng đi ĐT 830C tại vị trí cách mép lề phải khoảng 1,9m, gây ra tai nạn giao thông. Hậu quả làm Nguyễn Kim L chết tại hiện trường.

[3] Hành vi của Lâm Tấn T đã vi phạm vào khoản 23 Điều 8 Luật giao thông đường bộ.

Điều 8 Luật giao thông đường bộ quy định:

“23. Hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, hành vi khác gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ.”

[4] Hành vi của Lâm Tấn T đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ và đúng pháp luật.

[5] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, bị cáo xác định cáo trạng truy tố bị cáo là không oan sai, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt.

Luật sự bào chữa cho bị cáo đưa ra những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải, đã bồi thường, khắc phục hậu quả, gia đình bị cáo gặp khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, chưa có tiền án, tiền sự, khi tai nạn xảy ra bản thân bị cáo cũng bị thương tích nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo. Hội đồng xét xử ghi nhận khi lượng hình.

[6] Hành vi trái pháp luật của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, khi điều khiển phương tiện giao thông tham gia lưu thông trên đường, bị cáo không chấp hành triệt để các quy định luật giao thông đường bộ. Khi tham gia giao thông bị cáo không chú ý quan sát phía trước, điều khiển xe bằng một tay, không làm chủ tay lái nên gây ra tai nạn giao thông. Hậu quả, làm cho chị Nguyễn Kim L bị tử vong.

[7] Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm sự hoạt động bình thường của các phương tiện giao thông đường bộ, xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông, xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác, bị cáo cũng thừa biết tính mạng, sức khỏe của con người là vốn quý nhất, được pháp luật bảo hộ nhưng do chủ quan, cẩu thả nên bị cáo bất chấp chứng tỏ bị cáo đã xem thường pháp luật, xem thường sức khỏe, tính mạng của người khác. Hành vi của bị cáo gây mất mát, đau thương cho gia đình nạn nhân, gây mất trật tự an toàn giao thông, làm cho những người tham gia giao thông bất bình, hoang mang, lo sợ. Do đó, cần thiết xử lý bị cáo bằng một hình phạt thỏa đáng mới có thể giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Tuy nhiên, cần xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo xuất thân từ thành phần nhân dân lao động, mới phạm tội lần đầu, đã thật thà khai báo, biết ăn năn hối cải, bị cáo đã khắc phục xong hậu quả, hiện hoàn cảnh gia đình bị cáo gặp khó khăn,bị cáo là lao động chính trong gia đình, gia đình bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và có đơn bãi nại nên xem xét giảm cho bị cáo một phần về hình phạt. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng. Đối chiếu với quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có đủ điều kiện cho bị cáo được hưởng án treo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và gia đình.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Sau tai nạn xảy ra, bị cáo Lâm Tấn T đã thỏa thuận bồi thường chi phí mai táng, tổn thất tinh thần, nuôi con nhỏ và các chi phí khác cho ông Trần Đức T đại diện gia đình bị hại Nguyễn Kim L với số tiền là 100.000.000đ, hiện ông T đã nhận tiền xong, không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập đến.

[10] Về vật chứng:

- 01 xe đạp của Nguyễn Kim L, hiện Cơ quan điều tra đã trả lại cho đại diện của bị hại ông Trần Đức T là phù hợp.

- 01 xe mô tô biển số 59N2-866.07 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe 59N2-866.07 thuộc sở hữu của Lâm Tấn T, hiện Cơ quan điều tra đã trả lại choTài là phù hợp.

- 01 giấy phép lái xe mang tên Lâm Tấn T nên áp dụng Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự hoàn trả lại cho bị cáo là phù hợp.

(Tang vật trên hiện Tòa án nhân dân huyện Bến Lức đang tạm giữ).

[11] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lâm Tấn T phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Căn cứ vào khoản 1 Điều 202, điểm b, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 45, Điều 60 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lâm Tấn T 01 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm tính từ ngày tuyên án (ngày 23-11-2017). Giao bị cáo về cho Ủy ban nhân dân xã L, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh theo dõi việc bị cáo chấp hành hình phạt án treo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

2. Áp dụng Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự: Hoàn trả cho bị cáo 01 giấy phép lái xe mang tên Lâm Tấn T. (Tang vật trên hiện Tòa án nhân dân huyện Bến Lức đang tạm giữ)

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Lâm Tấn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

313
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2017/HS-ST ngày 23/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:75/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Lức - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về