Bản án 74/2021/HS-ST ngày 30/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 74/2021/HS-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 67/2021/TLST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 168/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Văn Đ, sinh ngày 04 tháng 9 năm 197X, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Tổ 24 (khu 3 cũ) phường V, quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Đ1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị C; bị cáo có vợ Phạm Thị T1 và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Cai nghiện tập trung tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 02 Tiên Lãng, Hải Phòng từ năm 2016 đến 2018 (đã hết thời hạn); bị bắt, tạm giữ ngày 20/02/2021, tạm giam ngày 21/02/2021; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ 00 phút ngày 19/02/2021, Tổ tuần tra Công an phường Vĩnh Niệm kết hợp với Đội Cảnh sát Hình sự Công an quận Lê Chân, Hải Phòng phát hiện, bắt quả tang Phạm Văn Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại khu vực trước cổng Cục thuế thành phố Hải Phòng, thuộc địa bàn phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, Hải Phòng. Tổ công tác thu giữ tại túi quần phía trước bên phải của Đ đang mặc 01 gói giấy màu đỏ (bao lì xì), bên trong có 01 túi nilon màu trắng, mép viền màu xanh, kích thước 3x3cm, chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá. Ngoài ra còn thu giữ của Phạm Văn Đ 01 ví da màu đen, bên trong có số tiền 1.793.000 đồng và 01 điện thoại Iphone 6. Tổ công tác đã đưa Phạm Văn Đ cùng vật chứng về trụ sở công an phường Vĩnh Niệm lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định số 175/KLGĐ ngày 21/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP Hải Phòng kết luận: tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon thu giữ của Phạm Văn Đ có khối lượng 0,25 gam, là loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, xét hỏi Phạm Văn Đ khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 16 giờ 00 phút ngày 14/02/2021, Đ một mình đi từ nhà đến khu vực chắn tàu Cầu Đất, Hải Phòng để tìm mua ma túy sử dụng một mình. Đến nơi Đ gặp và hỏi mua ma túy của 01 nữ giới không quen biết đang đứng ở khu vực hành lang đường tàu, Đ đưa cho người nữ giới 200.000 đồng, người nữ giới đưa cho Đ 01 túi nilon màu trắng, mép viền màu xanh, kích thước 3x3cm, chứa ma túy đá. Sau đó, Đ mang túi ma túy mua được về nhà, lấy một ít ra sử dụng. Số ma túy còn lại, Đ vẫn để trong túi nilon ban đầu và cho túi nilon ma túy này vào 01 gói giấy màu đỏ (bao lì xì), rồi cất giấu theo người. Đến khoảng 22 giờ ngày 19/2/2021, Đ mang ma túy đi ra ngoài đường tìm chỗ để sử dụng thì bị bắt quả tang. Sau đó, Đ thay đổi lời khai: khoảng 21 giờ 00 phút ngày 19/02/2021, Đ ở nhà thì có Trần Quốc T1, sinh năm 197Y, nơi cư trú: tổ 24, V, quận L, Hải Phòng (em họ của vợ Đ) đến rủ Đ đi hái lá dâu. Do T và Đ đã nhiều lần cùng nhau sử dụng ma túy, khi đi ra ngoài thì T nói nhỏ với Đ có ma túy không cho T sử dụng, Đ nói “Đưa tiền đây là có”. Lúc này, T đưa cho Đ 100.000 đồng rồi đi trước. Đ mang theo bao lì xì màu đỏ, bên trong có 01 túi nilon màu trắng, mép viền màu xanh, kích thước 3x3cm, chứa ma túy đá đi sau, đến khu vực trước cổng Cục thuế thành phố Hải Phòng thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát bắt giữ cùng vật chứng như trên. Việc Đ mua ma túy, cất giữ và sử dụng không có người nào biết. T không chung tiền hay đóng góp gì với Đ để mua ma túy và T cũng không biết việc Đ cất giữ ma túy. Nguồn gốc số tiền Đ mua ma túy và bị Công an thu giữ là do lao động tự do mà có. Số tiền 100.000 đồng T đưa cho Đ là tiền mừng tuổi đầu năm.

Cơ quan điều tra tiến hành triệu tập Trần Quốc T ghi lời khai: Khoảng 21 giờ ngày 19/02/2021, T đi đến nhà Đ rủ Đ đi hái lá dâu để về đun nước uống và Đ đồng ý. T có mừng tuổi đầu năm cho Đ 100.000 đồng. T đi ra trước đứng đợi một lúc nhưng không thấy Đ đâu thì T quay lại nhà Đ để tìm. Sau đó, T mới biết Đ đã bị công an bắt giữ. T không đóng góp, không biết việc Đ mua ma túy và cất giấu theo người. T không rủ Đ cùng đi sử dụng ma túy. T có nghiện ma túy Heroin từ năm 2017 đến năm 2018, từ đó đến nay T không nghiện và không sử dụng bất kì một loại ma túy nào. T chưa bao giờ cùng Đ sử dụng ma túy.

Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa Đ và T, nhưng cả hai vẫn giữ nguyên lời khai.

Phạm Thị T1 (vợ của Đ), sinh năm 197T, nơi cư trú: tổ 24 khu 3 V, quận L, Hải Phòng khai: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 19/02/2021, T và Đ đang ở nhà thì T đến rủ Đ đi hái lá dâu. Đ đi ra cửa nói chuyện gì với T T1 không biết. Thúy không biết Đ và T đi đâu, làm gì. T1 không biết và không liên quan đến việc Đ mua, cất giữ và sử dụng ma túy.

Tiến hành kiểm tra nhanh các chất ma túy, kết quả: Phạm Văn Đ dương tính với chất Methamphetamine và chất Morphine.Trần Quốc T âm tính với các chất ma túy.

Tại bản Cáo trạng số 78/CT-VKSLC ngày 03/6/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Phạm Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Phạm Văn Đ khai nhận hành vi đã thực hiện phù hợp với nội dung bản cáo trạng, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và khẳng định T không hỏi bị cáo có ma túy không cho T sử dụng, số tiền 100.000 đồng là T mừng tuổi cho bị cáo.

Kiểm sát viên tại phiên toà, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249;

điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Phạm Văn Đ với mức án từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 175MT/PC09 đựng vỏ bao bì và số ma túy còn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc, 01 ví giả da màu đen đã cũ và số tiền 1.793.000 đồng. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

- Về tội danh:

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Phạm Văn Đ đã có hành vi cất giữ bất hợp pháp 0,25 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Như vậy, hành vi của bị cáo Phạm Văn Đ đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an xã hội, làm phát sinh nhiều loại tội phạm hình sự khác. Bị cáo đã cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 02 Tiên Lãng, Hải Phòng đã hết thời hạn. Vì vậy cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe phòng ngừa tội phạm.

- Về tình tiết giảm nhẹ:

[5] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

- Về hình phạt bổ sung:

[6] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không có tài sản và thu nhập nên không cần thiết bắt bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Về việc xử lý vật chứng:

[7] Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 175MT/PC09 đựng vỏ bao bì và số ma túy còn lại sau giám định.

+ Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc, 01 ví giả da màu đen đã cũ và số tiền 1.793.000 đồng do không liên quan đến việc phạm tội nhưng tiếp tục tạm giữ số tiền 1.793.000 đồng để đảm bảo thi hành phần án phí.

[8] Đối với người nữ giới bán ma túy cho Đ do không xác định được căn cước, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra.

[9] Đối với việc Phạm Văn Đ khai T có rủ Đ sử dụng ma túy (tại giai đoạn điều tra), thì ngoài lời khai của Đ không có căn cứ, tài liệu nào chứng minh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không có cơ sở điều tra xử lý.

- Về án phí:

[10] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án:

[11] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Văn Đ 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 20/02/2021.

- Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 175MT/PC09 đựng vỏ bao bì và số ma túy còn lại sau giám định.

+ Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc, 01 ví giả da màu đen đã cũ và số tiền 1.793.000 (một triệu bẩy trăm chín mươi ba nghìn) đồng theo biên lai thu tiền số 0006312 ngày 03/6/2021 và biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/6/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng nhưng tiếp tục tạm giữ số tiền 1.793.000 đồng để đảm bảo thi hành phần án phí, số tiền còn thừa trả lại cho bị cáo.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Phạm Văn Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Phạm Văn Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2021/HS-ST ngày 30/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:74/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về