Bản án 74/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 74/2021/HS-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 02 năm 2021, tại nhà tạm giữ Công an huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 77/2021/TLST- HS ngày 22/01/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 77/2021/QĐXXST-HS ngày 25/01/2021 đối với bị cáo:

Lò Văn V, sinh ngày: 20/11/1986 tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu A, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Lò Văn N (Đã chết) và bà Lường Thị H; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 29/6/2015, Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Đã được xóa án tích); bị cáo bị bắt ngày 12/11/2020; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/11/2020 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ 15 phút ngày 12/11/2020, tổ công tác Công an xã Chiềng Sơn, huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ tại tiểu khu A, xã C, huyện M kiểm tra đối với Lò Văn V đang đi bộ trên đường dân sinh. Quá trình kiểm tra phát hiện V đang cất giấu trong túi áo khoác bên phải đang mặc 01 bao thuốc lá Thăng Long, vỏ màu vàng bên trong có 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng chất bột màu trắng nghi là Heroine. Lò Văn V khai nhận đó là Heroine của V cất giấu để sử dụng. Căn cứ hành vi vi phạm của Lò Văn V tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng, dẫn giải V bàn giao cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để điều tra làm rõ.

Ngày 13/11/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu tiến hành xác định khối lượng số chất bột màu trắng nghi là Heroine thu giữ của Lò Văn V được 0,15 gam, lấy toàn bộ làm mẫu trung cầu giám định, mẫu có ký hiệu V.

Tại kết luận giám định số 1669 ngày 17/11/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định V là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,15 gam; Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,15 gam; Loại Heroine.”

Quá trình điều tra Lò Văn V khai nhận: Bản thân nghiện chất ma túy. Khoảng 10 giờ ngày 12/11/2020, Vinh mang theo 50.000 đồng đi nhờ xe máy của một người đàn ông không quen biết đi đến xã L, huyện M, tỉnh Sơn La mục đích mua ma túy để sử dụng. Khi đến trung tâm xã L V xuống xe và đi bộ đến bản B, xã L. Đến nơi V gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết, khoảng 60 tuổi. V đã hỏi và mua được của người đó 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng Heroine với giá 50.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, V đã lấy ra sử dụng một ít, số Heroine còn lại V cất giấu vào trong bao thuốc lá Thăng Long rồi cho bao thuốc lá đựng gói ma túy vào túi áo khoác đang mặc rồi đi đến đường Quốc lộ 43 thuộc xã L, V xin đi nhờ xe của một người đàn ông không quen biết về nhà. Sau khi về đến nhà V mặc chiếc áo khoác có cất giấu ma túy đi chơi, trên đường đi bị tổ công tác Công an xã Chiềng Sơn kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang.

Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn V trình bày ý kiến, giữ nguyên lời khai của mình, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung nào làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo nhận tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho Lò Văn V như V đã khai nhận, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ do đó cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra làm rõ.

Cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 21/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị can Lò Văn V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm C khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

1. Căn cứ điểm C khoản 1 Điều 249, điểm S khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lò Văn V từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 13/11/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm C khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, C khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Lò Văn V, bắt ngày 12/11/2020 bên trong đựng mảnh nilon màu xanh, vỏ gói niêm phong ban đầu. Phía sau trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia và ba hình dấu đỏ của CSĐT Công an huyện Mộc Châu; 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma túy đối với Lò Văn V, ngày 12/11/2020, kq: Dương tính. Phía sau trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia và ba hình dấu đỏ của Công an xã Chiềng Sơn; 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Lò Văn V - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 12/11/2020 tại xã Cn, huyện M, tỉnh Sơn La tại phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La gồm có phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở, chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu V, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,10 gam. Phía sau trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia và hai hình dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, vỏ màu vàng.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Sau khi Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án. Bị cáo nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan Điều tra, số ma túy bị tổ công tác Công an huyện Mộc Châu thu giữ của bị cáo vào ngày 12/11/2020 có nguồn gốc mua được của một người phụ nữ dân tộc Mông, không quen biết với giá 50.000 đồng, mục đích sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi so với lời khai tại cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an huyện Mộc Châu lập vào hồi 22 giờ 15 phút ngày 12/11/2020; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong xác định số lượng, khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; bản kết luận giám định số 1669 ngày 17/11/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định V là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,15 gam; Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,15 gam; Loại Heroine”, loại Heroine nằm trong danh mục I, số thứ tự 9 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng trong quá trình điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác của cơ quan Điều tra đã thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Lò Văn V là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của việc tàng trữ, sử dụng ma túy nhưng do nghiện chất ma túy nên ngày 12/11/2020 bị cáo Lò Văn V đã có hành vi tàng trữ, cất giấu trái phép 0,15 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm C khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo Lò Văn V không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở điểm C khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm S khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. cần xem xét áp dụng đối với bị cáo.

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân xấu đó là: Ngày 29/6/2015, Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Đã được xóa án tích).

Từ những đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản gì có giá trị, là người nghiện ma túy, không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Lò Văn V, bắt ngày 12/11/2020 bên trong đựng mảnh nilon màu xanh, vỏ gói niêm phong ban đầu. Phía sau trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia và ba hình dấu đỏ của CSĐT Công an huyện Mộc Châu; 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma túy đối với Lò Văn V, ngày 12/11/2020, kq: Dương tính. Phía sau trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia và ba hình dấu đỏ của Công an xã Chiềng Sơn; 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Lò Văn V - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 12/11/2020 tại xã C, huyện M, tỉnh Sơn La tại phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La gồm có phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở, chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu V, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,10 gam. Phía sau trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia và hai hình dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, vỏ màu vàng. Xét thấy đây là những vật thuộc loại Nhà nước cấm mua bán, lưu hành, tàng trữ, vật không có giá trị sử dụng. Căn cứ điểm C khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, C khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về các vấn đề khác: Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho Lò Văn V như V đã khai nhận, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ do đó cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra làm rõ nên không đề cập đến vấn đề xử lý.

Đối với hai người đàn ông cho bị cáo Lò Văn V đi nhờ xe máy ngày 12/11/2020. Quá trình điều tra xác định bị cáo Lò Văn V đều không biết tên, địa chỉ ở đâu, không nhớ được biển kiểm soát của xe chỉ tình cờ hỏi và đi nhờ được. Do đó cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ đề điều tra làm rõ nên không đề cập đến vấn đề xử lý.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng phù hợp với khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Thời hạn tạm giam của bị cáo còn dưới 45 ngày do đó Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam đối với bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm C khoản 1 Điều 249; điểm S khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lò Văn V 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 13/11/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm C khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, C khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Lò Văn V, bắt ngày 12/11/2020 bên trong đựng mảnh nilon màu xanh, vỏ gói niêm phong ban đầu. Phía sau trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia và ba hình dấu đỏ của CSĐT Công an huyện Mộc Châu; 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma túy đối với Lò Văn V, ngày 12/11/2020, kq: Dương tính. Phía sau trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia và ba hình dấu đỏ của Công an xã Chiềng Sơn; 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Lò Văn V - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 12/11/2020 tại xã C, huyện M, tỉnh Sơn La tại phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La gồm có phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở, chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu V, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,10 gam. Phía sau trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia và hai hình dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, vỏ màu vàng.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lò Văn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chăn).

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về