Bản án 74/2021/HS-PT ngày 09/07/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 74/2021/HS-PT NGÀY 09/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09/7/2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 41/2021/TLPT-HS ngày 10/5/2021 đối với các bị cáo Nguyễn Thị O, Lê Ngọc Q do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2020/HS-ST ngày 09/04/2021 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo:

1/ Nguyễn Thị O,sinh năm 1995 tại Thanh Hóa; Nơi ĐKNKTT: Đội 8, xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Chỗ ở hiện nay: 181 Đ, tổ 79, phường X, quận L, TP Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Đ (s) và bà Hoàng Thị B (s); Gia đình có 03 người con, bị cáo là con út; chồng là Lê Ngọc Q (bị cáo trong vụ án) và 02 con(con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2020);

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại ; Có mặt tại phiên tòa.

2/ Lê Ngọc Q, sinh năm1990 tại Thanh Hóa; Nơi ĐKNKTT: Thôn V, xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Chỗ ở hiện nay: 181 Đ, tổ 79, phường X, quận L, TP Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Ngọc C (s) và bà Lê Thị L (s); Gia đình có 04 người con, bị cáo là con út; Vợ là Nguyễn Thị O (bị cáo trong vụ án) và 02 con(con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2020);

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, trong vụ án này còn có bị cáo Lê Văn H nhưng bị cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trong thời gian từ ngày 03/5/2020 đến ngày 09/10/2020, Lê Văn H, Nguyễn Thị O và Lê Ngọc Q đã nhiều lần cùng nhau trộm cắp tài sản tại các công trình xây dựng trên địa bàn phường X, quận L nhằm kiếm tiền tiêu xài. Cả ba thống nhất, H là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp. O và Q cung cấp cho H các công cụ, phương tiện phạm tội là xe bò, kiềm cộng lực cũng như phụ trách việc tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có. Hành vi phạm tội của các bị cáo cụ thể như sau:

Lần 1: Khoảng 12 giờ ngày 03/5/2020, Lê Văn H điều khiển xe máy hiệu Sirius biển kiểm soát 43E1 - 420.29 đến địa bàn phường Hòa Xuân tìm kiếm cơ hội trộm cắp tài sản thì phát hiện bên trong nhà sinh hoạt cộng đồng đang thi công trên đường K có nhiều máy móc và giàn tiệp của anh Nguyễn Văn P là chủ thầu công trình. H sử dụng kiềm cộng lực do O và Q trang bị, bẻ khóa cửa rồi dùng xe máy lén lút chở 01 máy cắt gạch cầm tay hiệu Makita 9553B màu xanh trị giá 824.500 đồng, 01 máy cắt sắt hiệu Makita M2400B trị giá 1.265.000 đồng, 01 máy trộn sơn hiệu ACZ 6116 trị giá 362.700 đồng, 03 cuộn dây điện Cadivi dài tổng cộng 70m trị giá 210.000 đồng, 01 máy bơm nước ly tâm hiệu KaWa 370W trị giá 275.000 đồng về tiệm phế liệu của O và Q trên đường Đ, thuộc phường X, quận L, rồi H giao lại số tài sản trên cho vợ chồng O mang vào nhà cất giấu. Tiếp đó, H mượn 01 xe bò của O gắn vào xe máy của mình quay lại công trình chở 06 bộ giàn tiệp trị giá 2.160.000 đồng về giao cho O và Q. Khi quay lại hiện trường định lấy thêm tài sản thì bị anh Hồ Văn V phát hiện nên H bỏ lại xe bò, điều khiển xe máy bỏ chạy. Toàn bộ số tài sản trộm được của anh P, vợ chồng O trả cho H số tiền 1.500.000đồng, rồi sau đó bán lại cho người không rõ lai lịch lấy số tiền 2.150.000 đồng.

Nguyễn Thị O và Lê Ngọc Q đã bồi thường số tiền 5.000.000 đồng cho anh Nguyễn Văn P. Anh P đã nhận đủ số tiền nêu trên và không có yêu cầu gì thêm.

Lần 2: Khoảng 12 giờ ngày 10/5/2020, Lê Văn H điều khiển xe máy nêu trên kéo theo xe bò của vợ chồng O đến công trình nhà đang xây của anh Đoàn Văn T tại Lô 93.B1.131 khu đô thị sinh thái ven sông Hòa Xuân. Tại đây, H lấy kiềm có sẵn tại công trình phá ổ khóa cửa rồi dùng xe bò chở 15 bộ giàn tiệp, loại 1,7m trị giá 4.050.000 đồng tại công trình về bán lại cho vợ chồng O với giá 2.000.000 đồng. Vợ chồng O sau đó đã bán lại cho người khác lấy số tiền 2.400.000 đồng.

Anh Đoàn Văn T yêu cầu bồi thường số tiền 4.050.000đồng. Hiện các bị cáo chưa bồi thường.

Lần 3: Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 28/5/2020, Lê Văn H điều khiển xe máy trên đến địa bàn phường Hòa Xuân trộm cắp tài sản thì phát hiện 02 đống giàn tiệp gồm 35 bộ dài 1,5m trị giá 9.030.000 đồng và 05 bộ dài 1,7m trị giá 1.350.000 đồng của anh Đoàn Văn T để trên vỉa hè tại trước số nhà 513, đường 29/3, phường X, quận L. H đến tiệm phế liệu của vợ chồng O lấy kiềm cộng lực và xe bò rồi quay lại hiện trường dùng kiềm bấm khóa xích, dùng xe bò chở tất cả số giàn tiệp trên đến tiệm phế liệu rồi cùng Q cất giấu vào kho. Sau khi kiểm đếm, O đưa cho H số tiền 6.000.000 đồng.Số tài sản này, O bán lại cho người khác được 8.000.000 đồng.

Anh T yêu cầu bồi thường số tiền 10.380.000đồng.Hiện các bị cáo chưa bồi thường.

Lần 4: Khoảng 02 giờ ngày 23/6/2020, Lê Văn H điều khiển xe máy trên đến khu vực vỉa hè đối diện trụ sở Công ty cổ phần đầu tư, thương mại, kỹ thuật và xây dựng T tại số 201 – 203 Â, thuộc phường X, dùng kiềm cộng lực và xe bò do O cung cấp, phá khóa rồi lấy toàn bộ 55 bộ giàn tiệp trị giá 14.850.000 đồng của Công ty đang tập kết ở đây về tiệm phế liệu rồi cùng vợ chồng O mang vào kho cất giấu. Số tài sản này, O mua lại H với giá 8.000.000 đồng, rồi bán lại cho khác, lấy số tiền 10.500.000 đồng.Số tiền có được từ việc phạm tội, các bị cáo đã tiêu xài hết.

Công ty T, yêu cầu bồi thường số tiền 14.850.000đồng.Hiện các bị cáo chưa bồi thường.

Cũng với thủ đoạn này, khoảng 03 giờ ngày 20/7/2020, Lê Văn H điều khiển xe máy kéo theo xe bò của vợ chồng O đến công trình đang thi công của anh Hoàng Văn T tại đối diện số 206 đường 29/3, lén lút chở 06 bộ giàn tiệp loại 1,7m trị giá 1.080.000 đồng đem đến bán cho vợ chồng O được 1.200.000 đồng. Vợ chồng O đã bán lại số tài sản này cho người khác với giá 1.320.000đồng.

Anh T yêu cầu bồi thường số tiền 1.080.000 đồng.Hiện các bị cáo chưa bồi thường.

Lần 5: Khoảng 03 giờ ngày 27/7/2020, Lê Văn H điều khiển xe máy kéo theo xe bò của vợ chồng O đến công trình đang xây dựng của anh Huỳnh Đức C tại số 14 L, phường X, quận L lén lút chở 11 bộ giàn tiệp trị giá 2.970.000 đồng đem đến bán cho O được 2.000.000 đồng. Số tài sản này, O bán lại cho người khác với giá 2.400.000 đồng.

Anh C yêu cầu bồi thường số tiền 2.970.000 đồng.Hiện các đối tượng chưa bồi thường.

Lần 6: Khoảng 0 giờ ngày 31/7/2020, Lê Văn H đến công trình xây dựng của anh Dương A tại số 01 T, phường X, dùng kiềm bấm xích khóa rồi dùng xe bò kéo 46 bộ giàn tiệp trị giá 8.050.000 đồng về bán cho O được số tiền 8.000.000 đồng. Sau đó, O bán lại 13 bộ giàn tiệp cho người khác với giá 2.900.000 đồng, 33 bộ giàn tiệp còn lại chưa kịp tiêu thụ thì bị phát hiện tạm giữ.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Cẩm Lệ đã trả lại vật chứng là 33 bộ giàn tiệp cho anh A. Nguyễn Thị O và Lê Ngọc Q đã bồi thường số tiền 2.000.000 đồng cho anh A đối với 13 bộ giàn tiệp bị mất không thu hồi được, anh A đã nhận đủ số tiền nêu trên và không có yêu cầu gì thêm.

Lần 7: Khoảng 02 giờ ngày 25/8/2020, Lê Văn H điều khiển xe máy kéo theo xe bò của vợ chồng O đi đến công trình xây dựng của anh Lưu Văn S tại Lô 95.B1.78, thuộc tổ 85, phường X. H dùng kiềm phá khóa xích rồi lén lút chở 30 bộ giàn tiệp loại 1,5m và 20 bộ giàn tiệp loại 1,7m, tổng trị giá 10.950.000 đồng đến bán cho vợ chồng O với giá 10.000.000 đồng. Hiện cơ quan điều tra đã thu hồi được 14 bộ giàn tiệp loại 1,5m tại nhà của vợ chồng O, riêng 36 bộ giàn tiệp không thu hồi được do vợ chồng O đã bán lại cho người khác với giá 8.700.000đồng.

Nguyễn Thị O và Lê Ngọc Q đã bồi thường số tiền 5.000.000 đồng cho anh S đối với số tài sản bị mất không thu hồi được. Anh S đã nhận đủ số tiền nêu trên và không có yêu cầu gì thêm.

Lần 8: Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 09/10/2020, Lê Văn H điều khiển xe máy kéo theo xe bò của vợ chồng O đến nhà kho công trình đang xây dựng tại Lô 44. B1.

62 thuộc phường X của anh Nguyễn Đức T lén lút lấy trộm 01 máy cắt sắt hiệu Maktec màu đỏ trị giá 2.253.600 đồng, 01 máy duỗi sắt điện hiệu Toàn P trị giá 3.420.000 đồng, 01 máy tời hiệu Toàn P trị giá 1.560.000 đồng, 02 cây uốn sắt trị giá 560.000 đồng, 01 chân để máy thủy bình trị giá 250.000 đồng, 13 bộ giàn tiệp trị giá 2.275.000 đồng đến bán cho vợ chồng O thì bị phát hiện, H bỏ xe bò lại hiện trường rồi điều khiển xe máy tẩu thoát.

Tổng giá trị tài sản định giá là67.745.800 đồng.

Tại Bản án sơ thẩm số 26/2021/HS-ST ngày 09/4/2021 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

*Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự; Xử phạt Nguyễn Thị O 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam để thi hành án.

*Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự.; Xử phạt Lê Ngọc Q 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam để thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần hình phạt đối với bị cáo Lê Văn H; Về trách nhiệm dân sự; Xử lý vật chứng; Án phí và quyền kháng cáo bản án.

Ngày16/4/2021, các bị cáo Nguyễn Thị O và Lê Ngọc Q có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin xét xử theo trình tự phúc thẩm để xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Về thủ tục: Đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thị O và Lê Ngọc Q theo đúng thủ tục và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ. Về nội dung: Xét về nội dung đơn kháng cáo của bị cáo thì thấy Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2021/HS-ST ngày 09/4/2021 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã xét xử các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 2 Điều 173 BLHS là có cơ sở, đúng pháp luật, mức án mà cấp sơ thẩm đã xét xử đối với các bị cáo là thỏa đáng, không nặng. Sau khi xử sơ thẩm, các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Các bị cáo Nguyễn Thị O và Lê Ngọc Q giữ nguyên đơn kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho các bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Nguyễn Thị O và Lê Ngọc Q đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó HĐXX có đủ cơ sở để khẳng định:Trong thời giantừ ngày 03/5/2020 đến ngày 09/10/2020, tại địa bàn phường X, quận L, Lê Văn H cùng với Nguyễn Thị O và Lê Ngọc Q đã có sự phân công, câu kết chặt chẽ với nhau thực hiện 08 vụ trộm cắp tài sản tại các công trình xây dựng. Tổng giá trị tài sản đã chiếm đoạt là 67.745.800 đồng.Vì vậy, Bản án hình sự sơ thẩm 26/2021/HS-ST ngày 09/4/2021 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã xét xử các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a, c khoản 2 Điều 173 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Xét đơn kháng cáo của các bị cáo, HĐXX thấy rằng: Hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Các bị cáo đã tích cực giúp sức cho Lê Văn H để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản từ việc chuẩn bị công cụ, phương tiện như xe bò, kiềm cộng lực và đứng ra tiêu thụ tài sảndo bị cáo H trộm cắp được.Các bị cáo phạm tội có tổ chức, phạm tội từ 02 lần trở lên nên theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì các bị cáo không đủ điều kiện để được hưởng án treo. Cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà các bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 BLHS đồng thời xử phạt mỗi bị cáo mức án 01 (một) năm 06 sáu (sáu) tháng tù là phù hợp.

Đối với bị cáo Lê Ngọc Q có một tình tiết giảm nhẹ chưa được cấp sơ thẩm xem xét theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS là gia đình có công với đất nước, có cha là Lê Ngọc C được tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì, có bác ruột là Lê Ngọc D hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng tình tiết này cũng không làm thay đổi mức án của bị cáo. Sau khi xử sơ thẩm, các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Đối với các bị cáo phải xử phạt nghiêm khắc, cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội. HĐXX căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng.

[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thị O, Lê Ngọc Q; Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

1.1.Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị O 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

1.2.Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Ngọc Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2.Về án phí: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

528
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2021/HS-PT ngày 09/07/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:74/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về