Bản án 74/2019/HS-ST ngày 16/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 74/2019/HS-ST NGÀY 16/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 76/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Đinh Thanh T (tên gọi khác: T), sinh năm 1987 tại Bình Phước; nơi cư trú thôn P, xã P, huyện P, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam, tôn giáo: Không, Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Đinh Công T, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1966; bị cáo có vợ là chị Phạm Thị Mai P, sinh năm 1989 và 01 người con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không, Về nhân thân:

Ngày 16/5/2008, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại bản án số 59/2008/HSST ngày 16/5/2008);

Ngày 06/01/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại bản án số 02/2012/HSST ngày 06/01/2012);

Ngày 10/02/2015, bị Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh Bình Phước (nay là thành phố Đ, tỉnh Bình Phước) xử phạt 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại bản án số 15/2015/HSST ngày 10/02/2015).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/4/2019 cho đến nay, “bị cáo có mặt”.

Người bị hại: Chị Lê Thị H, sinh năm 1985; nơi cư trú ấp 01, xã M, huyện C, tỉnh Bình Phước “có mặt”.

Người làm chứng: Anh Mai Đăng C, sinh năm 1981; nơi cư trú khu phố 3, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 40 phút ngày 09/4/2019, Đinh Thanh T chở vợ đi làm tại Công ty Shang Ying, thuộc Khu Công nghiệp Đ, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước. Khi đến gần cổng Khu Công nghiệp Đ thì T thấy chị Lê Thị H dựng xe môtô hiệu Honda, loại Vision, biển số 93B1-220.01 ở lề đường Quốc lộ 14, chìa khóa xe vẫn cắm trên ổ khóa điện còn chị H vào mua đồ ăn tại quán bán đồ ăn trên vỉa hè. Lúc này, T nảy sinh ý định lấy trộm xe của chị H nên đã đi bộ lại gần, ngồi lên xe và nổ máy điều khiển xe mô tô Honda Vision 93B1-220.01 chạy về hướng ngã tư Đ. Chị H quay lại thấy T vừa nổ máy xe thì chạy bộ đuổi theo và truy hô “Cướp, cướp”. Lúc này, anh Mai Đăng C ở gần đó liền lấy xe môtô của mình đuổi theo T. Khi T điều khiển xe đến khu vực “tượng đài chiến thắng” thuộc phường T, thành phố Đ thì bị anh C và quần chúng nhân dân bắt giữ, giao cho C an phường T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại kết luận định giá tài sản số 69/KLĐG ngày 10/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đ định giá 01 xe môtô, biển số 93B1-220.01, nhãn hiệu Honda, loại Vision, màu đỏ, số khung 5813GY195715, số máy JF66E0195754, đã qua sử dụng, còn hoạt động bình thường, có giá bán trên thị trường là 27.500.000 đồng/chiếc.

Quá trình bắt quả tang Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ thu giữ 01 xe môtô hiệu Honda loại Vision, màu đỏ biển số 93B1-220.01 Ngày 12/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe môtô hiệu Honda loại Vision, màu đỏ biển số 93B1-220.01cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Lê Thị H.

Tại Bản cáo trạng số 78/CT-VKS-ĐX ngày 13/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ đã truy tố bị cáo Đinh Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đinh Thanh T mức án từ 24 đến 30 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo Đinh Thanh T tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đồng Xoài, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng số 78/CT-VKS-ĐX ngày 13/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản định giá tài sản, với kết luận điều tra, cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Lợi dụng chị Lê Thị H sơ hở trong việc để chiếc xe mô tô Honda Vision biển số 93B1-220.01 và chìa khóa xe trên lề đường Quốc lộ 14 tại Cổng Công ty Shang Ying, thuộc Khu Công nghiệp Đ, phường T, thành phố Đ nên khoảng 06 giờ 40 phút ngày 09/4/2019 Đinh Thanh T đã lén lút đến gần nổ máy xe để chiếm đoạt thì bị chị H truy hô và anh Mai Đăng C truy đuổi bắt giữ.

Căn cứ vào hành vi bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do tài sản bị cáo chiếm đoạt có trị giá 27.500.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Bị cáo là người đã thành niên, hoàn toàn nhận thức được việc lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để lén lút chiếm đoạt tài sản là hành vi phạm tội nhưng vì mục đích vụ lợi cá nhân mà bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người bị hại, là khách thể được pháp luật bảo vệ. Bị cáo có nhân thân xấu đã nhiều lần bị kết án về hành vi trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không biết lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân lại tiếp tục phạm tội. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Tuy nhiên xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự được Hội đồng xét xử xem xét trong việc lượng hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại chị Lê Thị H đã nhận lại được tài sản là chiếc xe môtô hiệu Honda loại Vision, màu đỏ biển số 93B1-220.01 và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Đinh Thanh T (tên gọi khác: T) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đinh Thanh T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 09/4/2019.

3. Về trách nhiệm dân sự: Do các bên không ai có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí sơ thẩm:

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

6. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo; người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2019/HS-ST ngày 16/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:74/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về