Bản án 74/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 74/2019/HS-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 71/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2019/ QĐXXST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Mai Thanh H (B), sinh năm 1997 tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú hiện nay: Khu phố 4, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Văn L và bà Trần Thị N; có chồng và 01 con; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/8/2019 đến ngày 13/8/2019 và thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 14/8/2019 cho đến nay. “Có mặt” Bị hại: Công ty TNHH L;

Đa chỉ: Số 16, đường T, Khu phố 1, Phường 2, thành phố T, tỉnh Tây Ninh.

Người đại diện hợp pháp: Bà Trần Thị Đoan T, sinh năm 1974, là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 10 giờ ngày 04/8/2019, Công an xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh tiếp nhận đơn tố cáo của bà Trần Thị Đoan T, sinh năm 1974, ngụ số 16, đường T, khu phố 1, phường 2, thành phố T là Tổng giám đốc Công ty TNHH L tố cáo nhân viên Mai Thanh H trong thời gian làm thuê bán xăng dầu tại trạm xăng dầu chi nhánh 4 Công ty TNHH L tại ấp T, xã T, huyện C đã chiếm đoạt tiền bán xăng dầu nhưng không nộp về Công ty. Đến 12 giờ cùng ngày, Mai Thanh H đến Công an xã T đầu thú và thừa nhận hành vi chiếm đoạt trong thời gian làm thuê cho Công ty L.

Quá trình điều tra chứng minh được: Theo hợp đồng lao động giữa Mai Thanh H và Công ty TNHH L, Mai Thanh H được thuê làm nhân viên bán xăng dầu. Ngoài nhiệm vụ bán xăng dầu, H còn có nhiệm vụ ghi sổ sách, thu tiền công nợ và giao tiền bán xăng hàng ngày lại cho công ty. Tuy nhiên, do không đủ tiền tiêu xài nên trong khoảng thời gian từ tháng 7/2017 đến tháng 8/2019, lợi dụng việc được giao quản lý tiền nên hàng ngày H lấy tiền bán xăng dầu để sử dụng, dao động từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Khi kế toán công ty kiểm tra định kỳ thấy hao hụt tiền thì Mai Thanh H nói dối là cho anh Trần Quốc N, sinh năm 1977, ngụ khu phố 5, phường 1, thành phố T (em ruột bà Trần Thị Đoan T) tạm ứng trước hoặc không đưa sổ cho kế toán kiểm rồi sau đó dùng tiền khách hàng trả nợ để bù vào số tiền bán xăng hàng ngày mà H đã chiếm đoạt, khi không đủ để bù thì khoảng 02 đến 03 ngày H mới nộp tiền về công ty. Đến ngày 04/8/2019, tổng số tiền H đã chiếm đoạt của công ty L là 154.752.020 đồng.

Phần dân sự: Bị cáo Mai Thanh H đã bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt cho Công ty TNHH L, công ty không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản cáo trạng số: 73/CT-VKSCT ngày 25 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Mai Thanh H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ vào điểm c, Khoản 2, Điều 175; điểm b, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Mai Thanh H (B) từ 02 đến 03 năm tù, cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách 04 đến 05 năm.

Biện pháp tư pháp:

Về bồi thường thiệt hại: Bị cáo Mai Thanh H đã bồi thường toàn bộ số tiền chiếm đoạt cho bị hại, phía bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Bị cáo không tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất hối hận về hành vi mình gây ra, xin cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo nuôi con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Sau khi ký hợp đồng lao động với Công ty TNHH L, trong khi thực hiện công việc được giao theo hợp đồng là giữ tiền bán xăng và tiền thu công nợ tại Trạm xăng dầu L – Chi nhánh 4, bị cáo H đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền của công ty. Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra làm rõ. Do đó có đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

[3] Tổng số tiền bị cáo H đã chiếm đoạt của Công ty TNHH L từ tháng 7- 2017 đến tháng 8-2019 là 154.752.020 đồng. Do đó Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung hình phạt là tài sản chiếm đoạt có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, theo quy định tại điểm c, Khoản 2, Điều 175 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo đã lợi dụng sự tin tưởng của công ty trên cơ sở hợp đồng lao động, vì hám lợi nên bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản trong một thời gian dài. Vì vậy, cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả; quá trình điều tra cũng như xét xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi nhận tiền bồi thường phía bị hại cũng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật Hình sự mà bị cáo được hưởng khi quyết định hình phạt.

[7] Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, 2, Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và hiện tại bị cáo đang nuôi con nhỏ 04 tuổi. Do đó, xét thấy không cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội, mà căn cứ Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách cũng đủ đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo.

[6] Biện pháp tư pháp: Về bồi thường thiệt hại: Bị cáo Mai Thanh H đã bồi thường toàn bộ số tiền chiếm đoạt cho bị hại, phía bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm.

[7] Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Mai Thanh H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ vào điểm c, Khoản 2, Điều 175; điểm b, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Mai Thanh H (B) 02 (hai) năm tù, cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân thị trấn Châu Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1, Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Toà án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2/ Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; bị cáo Mai Thanh H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3/ Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:74/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về