Bản án 74/2018/HNGĐ-ST ngày 03/05/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 74/2018/HNGĐ-ST NGÀY 03/05/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 03 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 211/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 40/2018/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Thanh S, sinh năm 1988. (có mặt)

Địa chỉ: Ấp S, xã A, huyện Đ, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Chị Huỳnh Thị Yến T, sinh năm 1991. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp S, xã A, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 05 tháng 3 năm 2018 và những lời khai tiếp theo cũng như tại phiên tòa, anh Nguyễn Thanh S trình bày: Anh và chị Huỳnh Thị Yến T chung sống với nhau vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A vào năm 2012. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian dài, đến năm 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân mâu thuẫn là do cuộc sống vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên gây gổ, chị T không tôn trọng anh, dù anh chị đã cố gắng hàn gắn nhiều lần nhưng không thành. Anh chị đã ly thân từ tháng 02 năm 2018 đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên anh yêu cầu ly hôn với chị Huỳnh Thị Yến T.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Thị Thanh N, sinh ngày 04/9/2009 và Nguyễn Thị Thanh C, sinh ngày 18/12/2013 (chị T đang nuôi). Khi ly hôn, anh S đồng ý để chị T tiếp tục nuôi 02 con chung, anh cấp dưỡng nuôi con, mỗi cháu mỗi tháng 750.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Bị đơn chị Huỳnh Thị Yến T vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại Bản tự khai và Biên bản hòa giải ngày 15/3/2018, chị Huỳnh Thị Yến T trình bày: Chị thống nhất với lời trình bày của anh Nguyễn Thanh S về thời gian chung sống; điều kiện kết hôn, thời gian mâu thuẫn; thời gian ly thân và con chung. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh S nhậu về trễ, kiếm chuyện gây gổ, phát sinh cự cãi nên anh S bỏ nhà đi từ cuối tháng 02 năm 2018 đến nay. Mâu thuẫn vợ chồng chị chưa đến mức trầm trọng và chị vẫn còn thương chồng nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Trong trường hợp ly hôn, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con chung là Nguyễn Thị Thanh N, sinh ngày 04/9/2009 và Nguyễn Thị Thanh C, sinh ngày 18/12/2013. Chị yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu mỗi tháng 750.000 đồng cho đến khi hai con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị T thống nhất trình bày không có.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng kết quả hòa giải đoàn tụ không thành.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Nguyễn Thanh S khởi kiện yêu cầu ly hôn với chị Huỳnh Thị Yến T, chị T hiện có hộ khẩu thường trú và có mặt tại ấp S, xã A, huyện Đ, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn chị Huỳnh Thị Yến T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào điểm b, khoản 2 Điều 227; khoản 3 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Thanh S và chị Huỳnh Thị Yến T chung sống với nhau vào năm 2012 có đăng ký kết hôn nên hôn nhân giữa anh S và chị T là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Xét thấy, anh S và chị T đều trình bày trong quá trình chung sống, cuộc sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn nhưng mâu thuẫn lại không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Dù anh S và chị T trình bày nguyên nhân mâu thuẫn khác nhau nhưng chứng tỏ cuộc sống hôn nhân giữa anh chị có phát sinh mâu thuẫn và anh chị không thể tự khắc phục được nên dẫn đến sống ly thân từ tháng 2 năm 2018. Hơn nữa, từ khi sống ly thân đến nay, chị T cũng không tìm ra được biện pháp nào để vợ chồng đoàn tụ, hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Tại phiên tòa hôm nay, chị T vẫn vắng mặt, chứng tỏ chị không có thiện chí để hàn gắn, trong khi anh S xác định không còn tình cảm với chị T nên không đồng ý đoàn tụ. Do đó, xét thấy hôn nhân giữa anh chị đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc nên yêu cầu xin ly hôn của anh S đối với chị T là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung và cấp dưỡng: Anh S và chị T thống nhất có hai con chung gồm Nguyễn Thị Thanh N, sinh ngày 04/9/2009 và Nguyễn Thị Thanh C, sinh ngày 18/12/2013 (hai con đang sống với chị T). Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, anh S đồng ý để chị T tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung, anh S cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu mỗi tháng 750.000 đồng cho đến khi hai con đủ 18 tuổi. Chị T vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại bản tự khai và biên bản hòa giải ngày 15/3/2018, chị T cũng thống nhất như lời trình bày của anh S về con chung. Ngoài ra, tại bản tự khai cháu Nguyễn Thị Thanh N cũng có nguyện vọng sống với chị T. Xét thấy, việc thỏa thuận này là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81, Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5]. Về tài sản chung và nợ chung: Anh Nguyễn Thanh S và chị Huỳnh ThịYến T đều có lời trình bày không  có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án phí: Anh Nguyễn Thanh S phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, 56, 81, 82, 83, 84, 116 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Thanh S đối với chị Huỳnh Thị Yến T về việc “Ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Thanh S được ly hôn với chị Huỳnh Thị Yến T.

- Về con chung: Chị Huỳnh Thị Yến T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung tên Nguyễn Thị Thanh N, sinh ngày 04/9/2009 và Nguyễn Thị Thanh C, sinh ngày 18/12/2013. Anh Nguyễn Thanh S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng mỗi người con 750.000 đồng. Thời gian cấp dưỡng từ tháng 5 năm 2018 cho đến khi các con đủ 18 tuổi.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, bên trực tiếp nuôi con không được quyền ngăn cản. Khi cần thiết có thể yêu cầu thay đổi quyền nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

2. Về án phí: Anh Nguyễn Thanh S phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con sung công quỹ Nhà nước, anh S được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0002342 ngày 09/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành. Như vậy, anh S phải nộp tiếp 300.000 đồng.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9Luật  Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2018/HNGĐ-ST ngày 03/05/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:74/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về