Bản án 739/2020/HS-PT ngày 25/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 739/2020/HS-PT NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử P thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 397/2020/TLPT-HS ngày 29 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Phạm Hoàng P do có kháng cáo của bị hại Phạm Hoàng L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2020/HS-ST ngày 16 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

Bị cáo: Phạm Hoàng P, sinh ngày 20/3/1998, tại tỉnh Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn 6, xã Lộc An, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Không; con ông: Phạm Hoàng L, sinh năm 1958 và con bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1959; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 31/12/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Lâm Đồng. (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Phạm Hoàng P:

Luật sư Nguyễn Văn La – Văn phòng Luật sư Nguyễn Minh, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Lâm Đồng. Địa chỉ: 129 Nguyên Tử Lực, Phường 8, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. (có mặt)

Bị hại: Ông Phạm Hoàng L, sinh năm 1958. Địa chỉ: Thôn 6, xã Lộc An, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. (có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Hoàng N, sinh năm 1985. Địa chỉ: Thôn 6, xã Lộc An, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. (không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 04/8/2019, trong khi tìm tai nghe tại phòng ngủ của bố là ông Phạm Hoàng L tại: Thôn 6, xã Lộc An, huyện Bảo Lâm Lâm, tỉnh Lâm Đồng; Phạm Hoàng P phát hiện nơi cất dấu chìa khóa két sắt của gia đình được để trong phòng ngủ của ông L, do vậy P lấy mở thử (P mở được két sắt là do tại thời điểm mua két sắt về sử dụng ông L có nói mật khẩu mở két cho vợ biết thì có P cùng nghe) thì thấy có một số xấp tiền mệnh giá 100.000 đồng; có 01 bọc nilon màu xanh dương có nhiều tiền mệnh giá 500.000 đồng; 01 hộp màu đỏ bên trong có 01 sợi dây chuyền màu vàng, 01 mặt dây chuyền màu vàng cùng một số giấy tờ, sau khi xem xong P khóa két sắt; cất chìa khóa về vị trí cũ rồi về phòng học bài. Đến khoảng 16h00 cùng ngày, lúc này P nảy sinh ý định trộm cắp tiền trong két sắt; P đi qua phòng ngủ của ông L lấy chìa khóa mở két sắt lấy toàn bộ số tiền bỏ vào balo rồi lại cất chìa khóa về vị trí cũ. Sau đó P gọi điện thoại nhờ cháu chở đi đón xe về thành phố Hồ Chí Minh và thuê khách sạn để ở. Tại đây P lấy số tiền trộm cắp được của ông L ra kiểm đếm được gồm: 06 cọc tiền mệnh giá 500.000 nghìn đồng, mệnh giá mỗi cọc là 100 triệu; 01 cọc tiền mệnh giá 100.000 nghìn đồng tổng cộng là 30.000.000 đồng. Tổng cộng số tiền P đã trộm cắp được của ông Phạm Hoàng L là 630.000.000 đồng. Sau đó P sử dụng số tiền này mua 01 xe mô tô trị giá 100.000.000 đồng; 01 diện thoại di động trị giá 30.000.000 đồng; 01 máy tính xách tay MacBook trị giá khoảng 45.000.000 đồng; dùng số tiền 300.000.000 đồng mở cửa hàng bán quần áo tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; số tiền còn lại P đã tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 31/12/2019 thì Phạm Hoàng P bị cơ quan công an huyện Bảo Lâm phát hiện bắt giữ.

Ông Phạm Hoàng L trình bày toàn bộ số tiền 630.000.000 đồng bị P trộm cắp là tiền của con trai ông Phạm Hoàng N nhờ ông cất giữ.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) điện thoại di động loại màn hình cảm ứng Iphone XS Max, màu vàng đồng, màn hình kính phía trước bị bể, màn kính phía sau bị bể, kính máy ảnh bị bể. Đây là điện thoại mà Phạm Hoàng P mua từ số tiền trộm cắp được của ông Phạm Hoàng L.

Trách nhiệm dân sự: Đến nay ông Phạm Hoàng L đã trả lại toàn bộ số tiền 630.000.000 đồng cho anh Phạm Hoàng N và không yêu P phải trả lại cho ông số tiền này.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2020/HS-ST ngày 16 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng quyết định:

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Hoàng P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự. Xử phạt Phạm Hoàng P 07 (Bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 31/12/2019.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Phạm Hoàng L là cha của bị cáo, là người bị kiện trong vụ án, với tư cách là người bị hại trong vụ án kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo P. Tại Tòa cấp phúc thẩm hôm nay ông Phạm Hoàng L vẫn giữ theo yêu cầu kháng cáo.

Đối với bị cáo Phạm Hoàng P thì đồng ý với bản án sơ thẩm xử, không có kháng cáo.

Tại Tòa Vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị phúc xử không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Hoàng L giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo cho rằng bị cáo trộm tài sản của cha mẹ bị cáo, cha mẹ bị cáo cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên Luật sư đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Đơn kháng cáo của ông Phạm Hoàng L (người bị hại trong vụ án) kháng cáo làm trong hạn luật định nên kháng cáo hợp lệ. [2] Xét về nội dung vụ án thì thấy:

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay hôm nay bị cáo Phạm Hoàng P thừa nhận là vào ngày 04/8/2019 lợi dụng vắng người trong gia đình, bị cáo vào phòng ngủ của bố mẹ lấy chìa khóa két sắt rồi sử dụng mật mã mở két sắt lấy số tiền 630.000.000 đồng để trong két sắt rồi khóa lại cất chìa khóa vào vị trí cũ, sau đó đón xe khách mang số tiền trên vào Thành phố Hồ Chí Minh tiêu xài. Khi phát hiện tiền bị mất ông L bà H nghi bị cáo P lấy nên báo Công an, đến ngày 31/12/2019 thì bị cáo bị bắt. Tại Cơ quan điều tra thì bị cáo cũng thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo như trên.

Theo lời khai của ông Phạm Hoàng L, số tiền trên là của Phạm Hoàng N con của ông gửi, sau khi xảy ra vụ án thì ông bỏ tiền ra trả lại cho N, ông không yêu cầu bị cáo P phải bồi thường lại cho vợ chồng ông.

Do bị cáo Phạm Hoàng P có hành vi trộm cắp số tiền đến 630.000.000 đồng, rơi vào điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù. Khi định tội, lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm có xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để xử phạt đối với bị cáo, xử phạt bị cáo 7 (bảy) năm tù là có xem xét chiếu cố cho bị cáo, xử dưới mức khởi điểm của khung hình phạt (đầu khung của khung thấp hơn liền kề) nên không có căn cứ để xét giảm thêm cho bị cáo nên không chấp nhận theo kháng cáo của ông Phạm Hoàng L (bị hại trong vụ án) kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cũng như không chấp nhận theo đề nghị của người bào chữa cho bị cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[3] Chấp nhận theo quan điểm đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Hoàng L (người bị hại trong vụ án) kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự.

Phạt bị cáo Phạm Hoàng P 7 (bảy) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2019.

Các quyết định còn lại của án sơ thẩm xử không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Ông Phạm Hoàng L không phải nộp án phí hình sự P thẩm.

Bản án này là phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 25/11/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 739/2020/HS-PT ngày 25/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:739/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về