Bản án 73/2021/HS-ST ngày 29/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 73/2021/HS-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 18 tháng 3 năm 2021, tại Hội trường xét xử - Trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 61/2021/HSST ngày 27 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 171/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Đặng Viết Đ, sinh ngày 12 tháng 10 năm 1987 tại H. Nơi ĐKHKTT: Số 3, Gác 2 CT1, khu tập thể 5 tầng A, quận L, thành phố H; nơi ở: Khu 7, xã T, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Mai H và bà Nguyễn Thị H; có vợ thứ nhất là Dương Thúy H (đã ly hôn), vợ thứ hai là Nguyễn Thị T và 04 con; tiền án, tiền sự: Án số 20 ngày 18/01/2017 của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xử phạt 42 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; bị tạm giữ ngày 27/02/2021; chuyển tạm giam ngày 04/3/2021; có mặt.

2. Nguyễn Trọng X, sinh ngày 17 tháng 6 năm 1989 tại H. Nơi cư trú: Thôn H, xã Q, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Vũ Thị V; tiền án, tiền sự: Án số 22 ngày 02/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; nhân thân: Án số 66 ngày 12/12/2014 của Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng xử 09 phạt tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đã được xóa); bị tạm giữ ngày 27/02/2021; chuyển tạm giam ngày 04/3/2021; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 26/02/2021, Đ mượn xe môtô biển kiểm soát: 15B2- 76760 của anh Nguyễn Văn D (bạn của Đ) gặp và rủ X ở xã Tiên Thắng, huyện Tiên Lãng đi vào nội thành Hải Phòng chơi, X đồng ý và ngồi sau xe do Đ chở. Khi ra đến nội thành, Đ nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng và có nói cho X biết. Đ chở X đi đến khu vực chắn tàu đường Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân. Đ dừng xe và bảo X đứng ngoài chờ, còn Đ đi bộ vào ngách và gặp một người nam giới không quen biết hỏi mua ma túy “đá”. Người nam giới đồng ý nhận từ Đ số tiền 1.000.000 đồng và bảo Đ ra ngoài chờ. Một lúc sau, người nam giới ra chỉ tay ra hiệu, Đ hiểu ý đi lại nhặt chiếc hộp trong đựng ma túy, Đ cầm đi ra bên ngoài đưa cho Nguyễn Trọng X cất giữ. Khoảng 23 giờ ngày 26/02/2021, tổ công tác Cảnh sát Cơ động - Công an thành phố Hải Phòng trong khi làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực trước cửa nhà số 05 Vũ Chí Thắng, phường Nghĩa X, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng phát hiện Đặng Viết Đ và Nguyễn Trọng X có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, thu giữ trong quần lót của Nguyễn Trọng X đang mặc 01 hộp nhựa màu đen nắp màu xanh, bên trong có 03 túi nilon mép viền màu đỏ đều chứa tinh thể màu trắng, nghi là ma túy. Tổ công tác đã đưa Đ và X cùng vật chứng về trụ sở Công an phường Nghĩa X, lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang. Ngoài ra còn thu giữ của Nguyễn Trọng X 01 điện thoại Iphone 5S màu Xm, của Đặng Viết Đ 01 điện thoại OPPO, 01 xe môtô BKS 15B2-76760 và số tiền 33.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 185/KLGĐ-MT ngày 27/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng trong 03 gói nilon thu giữ của X là ma túy, có khối lượng 1,5 gam, là loại Methamphetamine.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra, Đặng Viết Đ và Nguyễn Trọng X đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu ở trên.

Tại Cáo trạng số 73/CT-VKS ngày 25/5/2021, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng truy tố các bị can Đặng Viết Đ và Nguyễn Trọng X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Qua xem xét đánh giá chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra, cùng lời khai nhận của các bị cáo, lời khai của người làm chứng. Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân giữ nguyên quan điểm truy tố các bị can Đặng Viết Đ và Nguyễn Trọng X theo tội danh cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Đặng Viết Đ và Nguyễn Trọng X đồng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Viết Đ với mức hình phạt từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 , điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng X với mức hình phạt từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

Xét điều kiện, hoàn cảnh gia đình của các bị cáo, các bị cáo đều không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì có số niêm phong số 185 MT/PC09 đựng số ma túy còn lại sau giám định; 01 phong bì có số niêm phong số 185 MT- A/PC09 đựng 01 hộp nhựa và 03 vỏ túi nilon, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng và số tiền 33.000 đồng, xét là tài sản của Đ không liên quan đến hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho Đặng Viết Đ.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S màu Xm đã qua sử dụng, xét là tài sản của Nguyễn Trọng X không liên quan đến hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho Nguyễn Trọng X.

Đối chiếc xe mô tô BKS 15B2-767.60 (vỏ xe loại EXCITER màu trắng-đen- đỏ), qua điều tra Xc minh chiếc xe này nguyên bản mang nhãn hiệu YAMAHA, Xc định chủ sở hữu hợp pháp là anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1986 (địa chỉ: Thôn Dốc Hậu, xã Toàn Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng), anh D không biết việc Đặng Viết Đ mượn chiếc xe trên để đi mua ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Lê Chân đã trả lại cho anh D.

Về án phí: Các bị cáo Đặng Viết Đ và Nguyễn Trọng X phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn được sự khoan hồng của pháp luật, được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện.

- Về tội danh:

[2] Lời khai về hành vi phạm tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, cùng với vật chứng đã được thu giữ trong vụ án, thể hiện: Hồi 22 giờ 10 phút ngày 26/02/2021, Đặng Viết Đ đã mua 1,5 gam Methamphetamine rồi đưa cho Nguyễn Trọng X cất giấu để cùng sử dụng thì bị bắt quả tang tại khu vực trước cửa nhà số 05 Vũ Chí Thắng, phường Nghĩa X, quận Lê Chân, Hải Phòng. Vì vậy đủ cơ sở kết luận các bị cáo Đặng Viết Đ và Nguyễn Trọng X đồng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt chính:

[3] Xét hành vi, động cơ, mục đích thực hiện tội phạm của các bị cáo Đặng Viết Đ và Nguyễn Trọng X như đã nêu ở trên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy; vi phạm Điều 3 Luật phòng, chống ma túy. Tội phạm mà các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng với lỗi cố ý, các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm, nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn cao hơn mức hình phạt Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đề xuất mới tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo và buộc các bị cáo phải cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định đủ để răn đe, giáo dục, cải tạo các bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

[4] Các bị cáo đều có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Xét tính chất, vai trò cho thấy Đặng Viết Đ và Nguyễn Trọng X có hành vi đồng phạm tội, đồng phạm giản đơn.

[5] Đối với bị cáo Đặng Viết Đ chưa có tiền sự, có 01 tiền án về tội Mua bán trái phép chất ma túy nhưng chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là tái phạm, là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đặng Viết Đ thành khẩn khai báo đối với hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, bị cáo Đ là người đề xuất và trực tiếp giao dịch mua ma túy nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét đánh giá, cân nhắc mức hình phạt của Đ cao hơn so với bị cáo X thì mới tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Đối với bị cáo Nguyễn Trọng X chưa có tiền sự, có 02 tiền án về tội Trộm cắp tài sản trong đó có 01 tiền án chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là tái phạm, là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo đối với hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo X là người giúp Đ cất giấu ma túy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét đánh giá, cân nhắc mức hình phạt thấp hơn so với bị cáo Đ.

- Về hình phạt bổ sung:

[7] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, ngoài hình phạt chính các bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét hoàn cảnh của các bị cáo không có việc làm, không có thu nhập ổn định, trên cơ sở quan điểm đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, nên Hội đồng xét xử cần miễn áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[8] Đối với 01 phong bì có số niêm phong số 185 MT/PC09 đựng số ma túy còn lại sau giám định, xét là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 phong bì có số niêm phong số 185 MT-A/PC09 đựng 01 hộp nhựa và 03 vỏ túi nilon, xét là vật chứa chất ma túy, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen (mật khẩu 172016) đã qua sử dụng, số IMEI1 861516040570098, số IMEI2 861516040570080 và số tiền 33.000 đồng, xét là tài sản của bị cáo Đặng Viết Đ không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo Đặng Viết Đ. Tuy nhiên cần tạm giữ số tiền 33.000 đồng để đảm bảo thi hành án đối với khoản tiền án phí bị cáo phải nộp.

[10] Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S màu xám, vỏ ốp đen đã qua sử dụng, số IMEI 013986001063663, xét là tài sản của bị cáo Nguyễn Trọng X không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo Nguyễn Trọng X.

[11] Đối chiếc xe mô tô BKS 15B2-767.60 (vỏ xe loại EXCITER màu trắng- đen-đỏ), qua điều tra xác minh chiếc xe này nguyên bản mang nhãn hiệu YAMAHA, xác định chủ sở hữu hợp pháp là anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1986 (địa chỉ: Thôn Dốc Hậu, xã Toàn Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng), anh D không biết việc Đặng Viết Đ mượn chiếc xe trên để đi mua ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Lê Chân đã trả lại cho anh D - Về các vấn đề khác:

[12] Đối với người nam giới bán ma túy cho bị cáo Đặng Viết Đ, tài liệu điều tra của Cơ quan CSĐT - Công an quận Lê Chân hiện không xác định được căn cước, lai lịch, nên không có căn cứ xử lý.

- Về án phí:

[13] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Viết Đ 42 (bốn mươi hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 27/02/2021.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng X 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 27/02/2021.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì số niêm phong số 185 MT/PC09 đựng số ma túy còn lại sau giám định, 01 phong bì số niêm phong số 185 MT-A/PC09 đựng 01 hộp nhựa và 03 vỏ túi nilon.

- Trả lại cho bị cáo Đặng Viết Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, mật khẩu máy 172016, số IMEI1: 861516040570098, số IMEI2: 861516040570080 thu giữ của Đặng Viết Đ.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 33.000 đồng (ba mươi ba nghìn đồng) thu giữ của Đặng Viết Đ để đảm bảo thi hành phần án phí mà bị cáo Đ phải nộp.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Trọng X 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S màu Xm, vỏ ốp đen, số IMEI: 013986001063663 không lên nguồn thu giữ của Nguyễn Trọng X.

(Theo Biên bản giao nhận tài sản, vật chứng và Biên lai thu tiền số 0006306 ngày 25/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.)

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Đặng Viết Đ phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Nguyễn Trọng X phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án đựơc thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi thành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành dân sự đựơc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2021/HS-ST ngày 29/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:73/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về