Bản án 73/2020/HS-ST ngày 27/08/2020 về tội trộm cắp tài sản và mua bán trái phép chất ma tuý   

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 73/2020/HS-ST NGÀY 27/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 27 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 69/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2020.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Mạc Hạ H, sinh ngày 24 tháng 10 năm 1992 tại huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mạc B (tên thường gọi là V, đã chết) và bà Trương Thị N; vợ, con: Chưa có; tiền án: có 02 tiền án: Bản án số 25/2015/HSST ngày 20/5/2015 của Toà án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chưa xoá án tích); Bản án số 48/2017/HSST của Toà án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chưa xoá án tích); tiền sự: Không có; nhân thân: Tại Quyết định số 146/QĐUB ngày 31/10/2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thời hạn 24 tháng; Quyết định số 24/XPVPHC ngày 14/4/2014 của Công an huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/4/2020 đến nay; có mặt.

2. Nguyễn Đình B, sinh ngày 03 tháng 5 năm 1968 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký thường trú: Khu D, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Khu D, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình C (đã chết) và bà Nguyễn Thị H (đã chết); vợ: Nguyễn Thị H (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Bản án số 16/HSST ngày 04/4/1997 của Toà án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 24 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý; Bản án số 159/HSST ngày 22/11/2000 của Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/4/2020 đến nay; có mặt.

- Bị hại:

1. Bà Chu Thị T, sinh năm 1947; địa chỉ: Số 15, đường B, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

2. Chị Vi Thị H, sinh năm 1982; địa chỉ: Tổ 9, khu D, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

3. Anh Lê Đình H, sinh năm 1989; địa chỉ: Số 157, khu D, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

4. Trường THPT Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Người đại diện theo uỷ quyền: Anh Đoàn Văn H, chức vụ: Phó Hiệu trưởng trường THPT Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Trần Văn H, sinh năm 1972; địa chỉ: Dốc T, thôn C, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

2. Anh Đoàn Văn S, sinh năm 1982; địa chỉ: Đường T, khu D, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

3. Chị Đoàn Mai H, sinh năm 1977; địa chỉ: Số 512 đường T, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

4. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1966; địa chỉ: Khu D, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

5. Anh Hoàng Tuấn P, sinh năm 1965; địa chỉ: Khu D, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. có mặt.

6. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1980; địa chỉ: Khu D, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 21/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn nhận được đơn trình báo của bà Chu Thị T trình báo về việc đêm ngày 15/3/2020, gia đình bà bị kẻ gian đột nhập cậy tủ lấy trộm số tiền khoảng 5.000 Nhân dân tệ (CNY) và 01 chiếc nhẫn vàng nữ trang 99,99% 1,5 chỉ. Ngày 22/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Mạc Hạ H để điều tra làm rõ. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Đình B, phát hiện và thu giữ 01 tivi nhãn hiệu LG 55 inch có vết nứt vỡ phía trên màn hình, 01 túi ni lon bên trong có chứa chất bột màu trắng và 02 túi ni lon bên trong có chứa chất rắn màu trắng cùng 02 bơm kim tiêm và 01 mảnh giấy bạc.

Cơ quan điều tra tiến hành truy tìm tài sản trộm cắp theo lời khai của các đối tượng; cũng trong ngày 22/4/2020, khi Cơ quan điều tra đến làm việc, anh Hoàng Tuấn P (em rể Nguyễn Đình B), tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 chiếc ti vi; chị Nguyễn Thị H (cháu ruột Bình), tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 bộ máy vi tính và 01 bộ phát wifi; anh Nguyễn Duy T (anh rể B) tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra 02 bộ máy vi tính khác hiệu FPT, 08 bếp từ và 01 âm li; những người này khai đây là số tài sản Nguyễn Đình B đã gửi trước đó.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 799/KL-HĐĐGTS ngày 24/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Lạng Sơn kết luận: Tổng giá trị của 03 bộ máy tính, 01 bộ phát Wifi, 02 màn hình ti vi LG 55 inch, 08 bếp từ nhãn hiệu Rnice CD20D, 01 bộ âm li nhãn hiệu OBT-6250 là 58.001.000 đồng.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 1096/KL-HĐĐGTS ngày 02/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Lạng Sơn kết luận: Giá trị 01 (một) nhẫn vàng ta, vàng nữ trang 99,99% (vàng 24k), khối lượng 1,5 chỉ là 6.600.000 đồng.

Tại Công văn số 482/LAS-TH,NS&KSNB ngày 29/4/2020 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Chi nhánh tỉnh Lạng Sơn xác định tỷ giá tiền Nhân dân tệ (CNY) và quy đổi số tiền 5.000CNY sang Đồng Việt Nam thời điểm từ ngày 12/3 đến ngày 18/3/2020 là 16.690.000 đồng.

Tại bản Kết luận giám định số 131/KL-PC09 ngày 27/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 1,053 gam (đã trừ bì) và chất rắn màu trắng gửi giám định là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,744 gam (đã trừ bì).

Kết quả điều tra xác định Mạc Hạ H là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, thường xuyên đi lang thang để trộm cắp tài sản bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. Từ ngày 15/3/2020 đến ngày 12/4/2020, Mạc Hạ H đã trực tiếp thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện V và huyện C, tỉnh Lạng Sơn, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 02 giờ sáng ngày 15/3/2020, Mạc Hạ H đến tiệm tạp hóa của bà Chu Thị T với mục đích cậy cửa để trộm cắp tài sản. Sau đó Mạc Hạ H sử dụng 01 thanh sắt dài khoảng 20cm nhặt được trên đường để cậy cửa cuốn phía bắc của cửa hàng rồi chui vào trong và sử dụng 01 khúc gỗ lấy bên trong cửa hàng chọc dập cầu giao ngắt điện camera an ninh lắp phía bên trên cửa cuốn. Dập xong cầu giao, Mạc Hạ H tới gần phòng bà Chu Thị T đang ngủ thì thấy áo khoác của bà Chu Thị T để bên ngoài nên đã lục lọi, lấy chùm chìa khóa trong túi áo để mở tủ Inox đựng quần áo đặt ở sát tường và lấy trộm số tiền 5.000 CNY (Năm nghìn Nhân dân tệ), 01 chiếc nhẫn vàng trọng lượng 1,5 chỉ được bà Chu Thị T cất trong ngăn tủ thứ hai từ trên xuống, sau đó đi ra ngoài theo lối đã vào. Đến khoảng 07 giờ sáng cùng ngày, Mạc Hạ H đón xe khách và mang 5.000 CNY tới khu vực ngã ba chợ Đ, thị trấn Đ, huyện C để đổi tiền với một người phụ nữ không rõ lai lịch được khoảng 15.000.000 đồng và mua ma túy sử dụng hết. Khoảng một tuần sau, Mạc Hạ H nhờ Trần Văn H dùng xe máy đưa đến cửa hàng cầm đồ “101” của anh Đoàn Văn S để bán chiếc nhẫn vàng với giá 6.500.000 đồng. Mạc Hạ H cho Trần Văn H 500.000 đồng để Trần Văn H mua ma túy sử dụng, 6.000.000 đồng còn lại Mạc Hạ H mua ma túy sử dụng hết.

Sau khi mua chiếc nhẫn vàng của Mạc Hạ H, anh Đoàn Văn S đã bán lại cho cửa hiệu vàng của chị ruột là Đoàn Mai H với giá 6.600.000 đồng. Sau đó chị Đoàn Mai H đã cho nung chảy để cô thành cục rồi bán cho xưởng thu mua vàng không nhớ địa chỉ tại Hà Nội.

Do sợ bà Chu Thị T phát hiện nên Mạc Hạ H không quay về T mà sống lang thang trên địa bàn thị trấn Đ. Vào cuối tháng 3/2020, thông qua Trần Văn H, Mạc Hạ H quen biết với Nguyễn Đình B có bán ma túy nhỏ lẻ cho các đối tượng nghiện. Do không có tiền mua ma túy để sử dụng nên Mạc Hạ H đã đặt vấn đề với Nguyễn Đình B là sẽ đi trộm cắp tài sản sau đó mang về bán cho Nguyễn Đình B lấy tiền hoặc đổi lấy ma túy sử dụng, Nguyễn Đình B đồng ý.

Vụ thứ hai: Khoảng 03 giờ sáng ngày 04/4/2020, Mạc Hạ H một mình đi đến hiệu thuốc tại khu V, thị trấn Đ, huyện C của chị Vi Thị H với mục đích trộm cắp tài sản. Trên đường đi, Mạc Hạ H nhặt ở ven đường 01 thanh sắt dài khoảng 20cm rồi đi men theo cạnh tường của hiệu thuốc, sau đó sử dụng thanh sắt chọc thủng cửa tôn phía sau cửa hàng rồi thò tay vào bên trong mở chốt cửa. Vào trong cửa hàng, Mạc Hạ H thấy 01 bộ máy vi tính để trên bàn kê cạnh tủ thuốc, bao gồm: 01 màn hình máy tính nhãn hiệu HKC, 01 cây máy tính nhãn hiệu XA-10, 01 bàn phím máy tính nhãn hiệu DAREU, 01 chuột máy tính nhãn hiệu Logitech, 01 bộ phát wi fi và thấy có 01 thùng bìa các tông bên cạnh bộ máy vi tính, nên Mạc Hạ H cho toàn bộ số tài sản nói trên vào thùng rồi bê ra đặt ở lối đi cạnh hiệu thuốc. Sau đó Mạc Hạ H đi bộ đến nhà Nguyễn Đình B và nhờ chuyển giúp số tài sản trộm cắp nói trên về nhà Nguyễn Đình B. Nguyễn Đình B đi mượn 01 chiếc xe máy không rõ nhãn hiệu, biển kiểm soát của một người đàn ông không rõ lai lịch chở Mạc Hạ H tới nơi giấu bộ máy tính, rồi cùng Mạc Hạ H bê thùng các tông đựng máy tính về nhà Nguyễn Đình B. Tại đây, Nguyễn Đình B trả giá 800.000 đồng cho bộ máy vi tính nhưng Mạc Hạ H không lấy tiền mặt mà đổi lấy một lượng ma túy tương đương 800.000 đồng để sử dụng. Sau đó Mạc Hạ H đem thanh sắt dùng để phá cửa hiệu thuốc cất giấu tại khu vực đồi phía sau nhà Nguyễn Đình B.

Vụ thứ ba: Khoảng 02 giờ sáng ngày 10/4/2020, Mạc Hạ H một mình đi đến nhà hàng “H quán” thuộc khu V, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn do anh Lê Đình H làm chủ với mục đích trộm cắp tài sản. Do cổng chính đóng nên Mạc Hạ H trèo qua tường và hàng rào phía sau nhà hàng rồi đi vào phòng ăn chính lấy trộm 08 chiếc bếp từ, nhãn hiệu RNICE CD20D để ở ngăn dưới quầy lễ tân; sau đó tiếp tục lấy 01 âm li, nhãn hiệu OBT tại ngăn tủ gỗ đặt ở góc tường và bê số tài sản nói trên trèo qua hàng rào theo lối đã vào rồi đem tất cả đến nhà Nguyễn Đình B để bán. Nguyễn Đình B trả giá chiếc âm li 1.000.000 đồng, 08 chiếc bếp từ 800.000 đồng, nhưng Mạc Hạ H không lấy tiền mặt mà yêu cầu đổi lấy số ma túy tương đương 1.800.000 đồng để sử dụng. Sau khi mua của Mạc Hạ H, Nguyễn Đình B cất âm li và 08 chiếc bếp từ tại nhà riêng.

Vụ thứ tư: Khoảng 01 giờ sáng ngày 11/4/2020, Mạc Hạ H cầm thanh sắt giấu sau nhà của Nguyễn Đình B đi đến trường Trung học phổ thông thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn nhằm mục đích trộm cắp tài sản. Sau khi vào trường bằng cách trèo tường bao phía Đông Bắc, Mạc Hạ H đi qua các dãy hành lang thấy lớp 11A1 có để máy vi tính trên bàn và tivi treo tường nên đã sử dụng thanh sắt cậy cửa phòng học và vào trong lớp. Sau đó, Mạc Hạ H lấy trộm 01 bộ máy vi tính nhãn hiệu FPT Elead bao gồm 01 màn hình máy tính, 01 cây máy tính, 01 bàn phím máy tính, 01 chuột máy tính rồi lần lượt đem từng thứ chui qua khe hở dưới rào chắn bằng kim loại của trường và đem bộ máy tính đến nhà Nguyễn Đình B bán được 800.000 đồng, nhưng Mạc Hạ H không lấy tiền mà đổi lấy ma túy để sử dụng. Sau đó, Mạc Hạ H quay lại phòng học lớp 11A1 tiếp tục tháo trộm 01 ti vi nhãn hiệu LG 55 inch và mang tới bán cho Nguyễn Đình B được 3.000.000 đồng, Nguyễn Đình B trừ nợ 2.000.000 đồng do trước đó Mạc Hạ H nợ Nguyễn Đình B tiền mua ma túy, còn lại 1.000.000 đồng Mạc Hạ H đổi lấy ma túy để sử dụng.

Vụ thứ năm: Khoảng 01 giờ sáng ngày 12/4/2020, Mạc Hạ H tiếp tục cầm thanh sắt chui qua khe hở dưới rào chắn để vào trường Trung học phổ thông thị trấn Đ theo lối cũ và đi thẳng tới phòng học lớp 11A3. Sau đó, Mạc Hạ H sử dụng thanh sắt cậy cửa phòng học và tiếp tục lấy 01 bộ máy vi tính nhãn hiệu FPT và 01 ti vi nhãn hiệu LG 55 inch giống của phòng học 11A1 đã lấy trước đó. Sau đó, Mạc Hạ H đem bán cho Nguyễn Đình B chiếc ti vi giá 3.000.000 đồng, bộ máy vi tính 800.000 đồng. Mạc Hạ H trả nợ Nguyễn Đình B 1.000.000 đồng tiền mua ma túy trước đó; còn 2.800.000 đồng, Mạc Hạ H mua ma túy để sử dụng.

Tng giá trị tài sản do bị cáo Mạc Hạ H trộm cắp được đem bán thu được tổng số tiền là 31.700.000,đồng (trong đó tài sản trộm cắp của gia đình bà Chu Thị T bán nhẫn, đổi tiền nhân dân tệ là 21.500.000,đồng; tiền bán đổi ma túy cho Nguyễn Đình B là 10.200.000,đồng).

Đi với bị cáo Nguyễn Đình B sau khi mua lại tài sản trộm cắp của Mạc Hạ H đem cất 01 chiếc ti vi tại vườn phía trước nhà; gửi ở nhà cháu ruột là Nguyễn Thị H 01 bộ máy vi tính và 01 bộ phát wifi; gửi ở nhà em rể là Hoàng Tuấn P 01 chiếc ti vi với lý do đang dọn nhà nên không có chỗ để; còn 02 bộ máy vi tính khác hiệu FPT, 08 bếp từ và 01 âm li Nguyễn Đình B cho vào 02 thùng tôn đóng kín rồi đem gửi ở nhà chị gái ruột là Nguyễn Thị H (Vợ anh Nguyễn Duy T) và nói dối bên trong đựng máy cưa, máy khoan để chuẩn bị đi hái hồi. Số tài sản gồm 03 bộ máy vi tính, 01 cục phát Wifi, 02 ti vi, 01 bộ âm li, 08 bếp từ là tài sản trộm cắp đã được Mạc Hạ H thỏa thuận, thống nhất trước với B khi trộm cắp được tài sản sẽ bán cho Nguyễn Đình B lấy tiền hoặc đổi lấy ma túy sử dụng; còn 01 túi ni lon bên trong có chứa chất bột màu trắng là chất Heroin và 02 túi ni lon bên trong có chứa chất rắn màu trắng là chất ma túy Methamphetamine, Nguyễn Đình B khai tàng trữ để bán cho các đối tượng có nhu cầu.

Theo các biên bản định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản theo tố tụng. Tổng giá trị tài sản bị cáo Mạc Hạ H trộm cắp được là 81.291.000,đồng (tám mươi mốt triệu hai trăm chín mươi mốt nghìn đồng).

Bn Cáo trạng số: 77/CT-VKS-P1 ngày 12 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Mạc Hạ H phạm tội Trộm cắp tài sản theo điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Đình B về tội Trộm cắp tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 173 và tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa: Bị cáo Mạc Hạ H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Về phần bồi thường thiệt hại, bị cáo Mạc Hạ H chấp nhận hoàn trả cho bị hại bà Chu Thị T số tài sản đã trộm cắp của bà gồm có 5000 nhân dân tệ tiền Trung Quốc và 01 nhẫn vàng 1,5 chỉ, theo giá trị đã được định giá tài sản .

Bị cáo Nguyễn Đình B tại cơ quan điều tra khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, nhưng sau đó bị cáo phản cung. Tại phiên toà bị cáo thừa nhận bản thân có được bàn bạc, thoả thuận với Mạc Hạ H về việc mua lại tài sản trộm cắp và có được giúp Mạc Hạ H 01 lần vận chuyển tài sản trộm cắp.

Bị hại chị Chu Thị T vắng mặt tại phiên tòa, nhưng theo lời khai của bà Chu Thị T vẫn yêu cầu bị cáo Mạc Hạ H phải trả lại toàn bộ số tài sản đã trộm cắp của bà, bao gồm 5000 nhân dân tệ tiền Trung Quốc và 01 nhẫn vàng 99,99% 1,5 chỉ theo giá Hội đồng định giá tài sản: Tổng trị giá tài sản là 23.290.000 đồng.

Các bị hại anh Lê Đình H, chị Vi Thị H, trường THPT Đ (người đại diện: anh Đoàn Văn H), vắng mặt tại phiên toà; theo lời khai của các bị hại tại Cơ quan điều tra các bị hại đều được Cơ quan điều tra trả lại đầy đủ các tài sản do bị cáo Mạc Hạ H Trộm cắp và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường do các tài sản bị hư hỏng.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Mạc Hạ H phạm tội Trộm cắp tài sản; tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình B phạm tội Trộm cắp tài sản và tội Mua bán trái phép chất ma tuý. Căn cứ điểm c, g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Mạc Hạ H từ 04 đến 05 năm tù. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173, điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Nguyễn Đình B từ 03 đến 04 năm tù về tội Trộm cắp tài sản và từ 09 đến 10 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý. Tổng hình phạt chung của hai tội từ 12 năm đến 14 năm tù. Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Mạc Hạ H phải bồi thường cho bà Chu Thị T số tiền là 23.290.000,đồng; ghi nhận việc cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại đầy đủ các tài sản do bị cáo Mạc Hạ H trộm cắp cho các bị hại là anh Lê Đình H, chị Vi Thị H, trường THPT Đ (người đại diện: anh Đoàn Văn H); truy thu số tiền 10.200.000,đồng của bị cáo Mạc Hạ H do các bán tài sản trộm cắp được mà có sung ngân sách Nhà nước. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma tuý và những đồ vật không có giá trị sử dụng.

Tại phiên tòa các bị cáo Mạc Hạ H, Nguyễn Đình B không tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Các bị cáo nói sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị hại, Chu Thị T, anh Lê Đình H, chị Vi Thị H, đại diện trường THPT Đ anh Đoàn Văn H vắng mặt và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Trần Văn H, anh Đoàn Văn S, chị Đoàn Mai H vắng mặt nhưng đã có lời khai tại cơ quan điều tra. Căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt những người này theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

[3] Tại phiên tòa lời khai nhận của bị cáo Mạc Hạ H phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, phù hợp với các kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Bị cáo Nguyễn Đình B ban đầu không thừa nhận đã bàn bạc với Mạc Hạ H về việc mua lại tài sản trộm cắp, không giúp Mạc Hạ H tham gia vận chuyển tài sản trộm cắp. Sau khi được Hội đồng xét xử phân tích làm rõ hành vi phạm tội, bị cáo Nguyễn Đình B đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình được tham gia bàn bạc với bị cáo Mạc Hạ H về việc trộm cắp tài sản và nhận mua lại các tài sản do bị cáo Mạc Hạ H trộm cắp. Căn cứ các lời khai ban đầu của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị cáo Mạc Hạ H, lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thấy có đủ có sở khẳng định bị cáo Mạc Hạ H và bị cáo Nguyễn Đình B phạm tội trọm cắp tài sản [4] Hành phạm tội của các bị cáo được thể hiện, cụ thể: Từ ngày 15/3/2020 đến ngày 12/4/2020, Mạc Hạ H đã thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện V và huyện C, tỉnh Lạng Sơn, tổng giá trị tài sản Mạc Hạ H đã trộm cắp là 81.291.000,đồng. Mạc Hạ H đã bàn bạc thống nhất trước với Nguyễn Đình B về việc trộm cắp tài sản được sẽ mang đến bán cho Nguyễn Đình B, từ khi thỏa thuận, Nguyễn Đình B đã 04 lần mua tài sản do Mạc Hạ H trộm cắp, trong đó có một lần trực tiếp sử dụng xe máy vận chuyển tài sản về nhà. Các lần mua bán tài sản trộm cắp của Mạc Hạ H đều không trả tiền mặt mà đổi lấy ma túy.

[5] Ngoài hành vi phạm tội tham gia với vai trò đồng phạm, là người gúp sức cho bị cáo Mạc Hạ H, bị cáo Nguyễn Đình B còn phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, đối với số ma tuy thu giữ tại nhà của bị cáo. Theo Kết luận giám định số 131/KL-PC09 ngày 27/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn: Chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 1,053 gam (đã trừ bì) và chất rắn màu trắng gửi giám định là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,744 gam (đã trừ bì). Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đình B khai nhận bị cáo là người nghiện nên mua về sử dụng và dùng để bán lại cho ai có nhu cầu sử dụng. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc truy tố bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

[6] Hành vi phạm tội của các bị cáo Mạc Hạ H, Nguyễn Đình B là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu rất nghiêm trọng đến tình hình an ninh, chính trị, trất tự an toàn xã hội ở địa phương nói riêng và trong toàn xã hội nói chung, hanh vi đó trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, có đủ năng lực hành vi dân sự, có sức khỏe, nhận thức rõ được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện, do đó cần phải được xử lý một cách nghiêm minh trước pháp luật. Đối với hành vi Mua bán trái phép chất ma tuý của bị cáo Nguyễn Đình B đã vi phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước.

[7] Từ những phân tích nêu trên, xét thấy: Cần phải áp dụng mức hình phạt thật nghiêm khắc cách lý các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để các bị cáo tập trung lao động, cải tạo sau này trở về thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội và cũng là bài học kinh nghiệm để tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho những ai còn có ý nghĩa tương tự [8] Ngoài việc xem xét đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, thấy cũng cần phải xem xét đến những yếu tố liên quan nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát để có thể giảm bớt phần nào mức hình phạt cho các bị cáo; xét thấy: Các bị cáo đều là người có nhân thân xấu, bị cáo Mạc Hạ H có 02 tiền án chưa được xoá án tích, đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đã bị xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo Nguyễn Đình B 02 lần bị kết án về tội Mua bán trái phép chất ma tuý. Các bị cáo đều thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo Mạc Hạ H, bị cáo Nguyễn Đình B đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[9] Đối với anh Trần Văn H là người đưa bị cáo Mạc Hạ H đi bán nhẫn, anh Đoàn Văn S, chị Đoàn Mai H là người mua chiếc nhẫn nhưng không biết nguồn gốc chiếc nhẫn là do trộm cắp mà có; chị Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H và anh Hoàng Tuấn P là người đồng ý cho bị cáo Nguyễn Đình B gửi tài sản tại nhà mình nhưng không biết nguồn gốc số tài sản này là do phạm tội mà có, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Đối với người đàn ông cho bị cáo Nguyễn Đình B mượn xe máy để chở bị cáo Mạc Hạ H và đồ trộm cắp ngày 04/4/2020 do Nguyễn Đình B không biết tên tuổi, lai lịch, không nhớ biển kiểm soát xe nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ, Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Chu Thị T yêu cầu bị cáo Mạc Hạ H phải bồi thường 5000 nhân dân tệ tiền Trung Quốc và 01 nhẫn vàng 99,99% 1,5 chỉ là có căn cứ. Tổng giá trị tài sản trộm cắp quy đổi thành tiền ngân hàng Nhà nước việt Nam là 23.290.000 đồng (hai mươi ba triệu hai trăm chín mươi nghìn đồng). Tại phiên toà, bị cáo Mạc Hạ H thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản của bà Chu Thị T, do đó Hội đồng xét xử buộc bị cáo Mạc Hạ H phải bồi thường cho bị hại bà Chu Thị T số tiền trên.

[12] Đối với các bị hại: Anh Lê Đình H, chị Vi Thị H, trường THPT Đ (người đại diện: anh Đoàn Văn H) được Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại đầy đủ các tài sản do bị cáo Mạc Hạ H trộm cắp. Do vậy Hội đồng xét xử ghi nhận các bị hại là anh Lê Đình H, chị Vi Thị H, trường THPT Đ (người đại diện: anh Đoàn Văn H) đã nhận lại đầy đủ tài sản theo biên bản vể việc trả lại đồ vất tài liệu ngày 29/4/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn.

[13] Truy thu số tiền 10.200.000,đồng (mười triệu hai trăm nghìn đồng) của bị cáo Mạc Hạ H do các bán tài sản trộm cắp được mà có sung ngân sách Nhà nước.

[14] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma tuý là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ, đối với các đồ vật gồm bơm kim tiêm, mảnh giấy bạc, thùng tôn là những đồ vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.

[15] Về án phí: Bị cáo Mạc Hạ H, Nguyễn Đình B bị kết án nên phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo Mạc Hạ H phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch để sung quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[16] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm luận tội phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[17] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c, g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 17, 38, 50, 58 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 292, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Mạc Hạ H;

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b khoản 2 Điều 251; các Điều 17, 38, 50; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm a khoản 1 Điều 55; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 292, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Đình B.

Căn cứ các Điều 357, 468, 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015; điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Mạc Hạ H phạm tội Trộm cắp tài sản; bị cáo Nguyễn Đình B phạm tội Trộm cắp tài sản và Mua bán trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Mạc Hạ H 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 22/4/2020), tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình B 03 (ba) năm tù về tội Trộm cắp tài sản; 09 (chín) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 12 (mười hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 22/4/2020), tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Mạc Hạ H có nghĩa vụ phải trả bà Chu Thị T số tiền 23.290.000,đồng (hai mươi ba triệu hai trăm chín mươi nghìn đồng), tương ứng với 5000 nhân dân tệ tiền Trung Quốc và 01 nhẫn vàng 99,99% 1,5 chỉ.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án đối với các khoản tiền phải trả nều bên phải thi hành án chậm trả tiền thì phải chịu lại xuất đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chưa thi hành án, lãi xuất phát sinh do chậm trả được thực hiện theo quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng sơn đã trả lại các tài sản sản, đồ vật theo biên bản vể việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 29/4/2020 cho các bị hại là anh Lê Đình H, chị Vi Thị H, trường THPT Đ (người đại diện anh Đoàn Văn H).

5. Buộc bị cáo Mạc Hạ H phải giao nộp số tiền 10.200.000 đồng (mười triệu hai trăm nghìn đồng), do bán tài sản trộm cắp được cho bị cáo Nguyễn Đình B mà có để sung ngân sách Nhà nước.

6. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu huỷ 02 (hai) thùng tôn cũ, đã qua sử dụng; 01 (một) phong bì niêm phong bên trong có: 01 túi nilon kích thước 4,3cm x 9,3cm (cũ) đựng 0,938 gam chất ma tuý Heroine; 01 túi nilon kích thước 04cm x 6,5cm (cũ) đựng tổng cộng 0,643 gam chất ma tuý Methamphetamine và vỏ bao gói (cũ); 02 (hai) bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 01 (một) mảnh giấy bạc. Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04 tháng 8 năm 2020.

7. Về án phí: Các bị cáo Mạc Hạ H, Nguyễn Đình B mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước; bị cáo Mạc Hạ H phải chịu 1.164.500,đồng (một triệu một trăm sáu mười tư nghìn năm trăm đồng), tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch trong vụ án hình sự để sung ngân sách Nhà nước.

8. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2020/HS-ST ngày 27/08/2020 về tội trộm cắp tài sản và mua bán trái phép chất ma tuý   

Số hiệu:73/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về