Bản án 73/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GIA NGHĨA, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 73/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã G, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 66/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số: 28/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Thị Q, sinh năm 1986, tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Tổ dân phố 5, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Anh T và bà Nguyễn Thị C; có chồng là anh Phạm Ngọc N và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2018; đang tại ngoại - có mặt.

- Bị hại: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1990 và chị Võ Thị Thu N, sinh năm 1992.

Cùng địa chỉ: Thôn T, xã Q, thị xã G, tỉnh Đắk Nông - vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Ngọc C, sinh năm 1980.

Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố 6B, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Chỗ ở hiện nay: Số nhà 20 Bùi Hữu Nghĩa, tổ 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk - có mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Võ H - vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Anh Phạm Ngọc N - vắng mặt không có lý do.

+ Anh Lê Huy H - vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Chị Phạm Thị Hồng M - vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Anh Phạm Trọng T - vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 7/2017, vợ chồng anh Phạm Văn T (SN 1990 ) và chị Võ Thị Thu N(SN 1992), cùng HKTT tại thôn T, xã Q, thị xã G, tỉnh Đắk Nông gặp và quen biết với Trần Thị Q. Chị N liên hệ với Q, trao đổi về việc mình đã tốt nghiệp Trung cấp sư phạm và muốn xin vào biên chế dạy học trong trường mầm non trên địa bàn thị xã G, tỉnh Đắk Nông. Sau khi trao đổi và thống nhất, Q yêu cầu chị N giao số tiền 130.000.000 đồng và hứa nhất định sẽ xin được vào biên chế dạy học tại Trường mầm non H, xã Q, thị xã G, tỉnh Đắk Nông đồng thời Q hướng dẫn chị N lập 01 bộ hồ sơ xin việc gồm: Bằng tốt nghiệp, bảng điểm, giấy khám sức khỏe và một số giấy tờ khác liên quan.

Vào các ngày 06/9/2017, 08/9/2017 tại nhà riêng của Trần Thị Q thuộc tổ 5, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông anh Phạm Văn T và chị Võ Thị Thu N giao cho Q số tiền 130.000.000 đồng và 01 bộ hồ sơ xin việc gồm các tài liệu như Q hướng dẫn. Việc giao nhận tiền được lập thành văn bản, nội dung Q nhận 130.000.000 đồng để lo cho chị N vào Trường mầm non H, trong thời gian 03 tháng từ 06/9/2017 đến 30/12/2017, nếu không xin được Q sẽ trả lại số tiền trên.

Quá hạn 03 tháng nhưng không nhận được quyết định đi làm và Trần Thị Q cũng không trả lại tiền, nên ngày 18/02/2019 anh Phạm Văn T và chị Võ Thị Thu N làm đơn tố cáo hành vi của Q.

Đối với số tiền 130.000.000 đồng và hồ sơ xin việc, Trần Thị Q khai đã giao lại cho anh Phạm Ngọc C (SN 1980), HKTT: Tổ 6B, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để xin việc cho chị Võ Thị Thu N nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh việc giao nhận. Quá trình điều tra, xác minh anh C khai không có sự việc xảy ra như lời khai của Q.

Xác minh tại Ủy ban nhân dân thị xã G, tỉnh Đắk Nông, Phòng Giáo dục và Đào tạo thị xã G, tỉnh Đắk Nông và Trường mầm non H, xã Q, thị xã G, tỉnh Đắk Nông cung cấp thông tin: Trong khoảng thời gian từ tháng 9/2017 đến tháng 12/2017, Ủy ban nhân dân thị xã G, tỉnh Đắk Nông, không có chỉ tiêu thi tuyển viên chức giáo viên, đối với hệ mầm non chỉ có chủ trương hợp đồng, không tuyển biên chế mới; Trong khoảng thời gian trên, tại trường mầm non H có 02 giáo viên hợp đồng theo chủ trương của Ủy ban nhân dân thị xã G, tỉnh Đắk Nông nhưng không có ai là Võ Thị Thu N; tại Phòng Giáo dục và đào tạo thị xã G, tỉnh Đắk Nông không có hồ sơ xin việc nào mang tên Võ Thị Thu N.

Tại Bản kết luận giám định số 40/GĐTL-PC09 ngày 02/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Chữ viết phần nội dung và chữ viết, chữ ký mang tên Trần Thị Q trên giấy nhận tiền đề ngày 08/9/2017 so với chữ viết, chữ ký của Trần Thị Q là do cùng một người ký, viết ra.

Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu: 01 tờ giấy nhận tiền viết tay, lập ngày 08/9/2017 (Bản gốc).

Xét thấy, đây là tài liệu liên quan đến hành vi phạm tội nên phải lưu trong hồ sơ vụ án.

Phn dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, ngày 20/6/2019, Trần Thị Q đã bồi thường số tiền 130.000.000 đồng cho anh Phạm Văn T và chị Võ Thị Thu N. Sau khi nhận tiền, anh T chị N không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Q.

Tại bản Cáo trạng số 57/CT-VKS ngày 09 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã G, tỉnh Đắk Nông đã truy tố bị cáo Trần Thị Q về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị Q đã khai nhận hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng, thừa nhận Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là đúng, không oan.

Kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố. Sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Thị Q từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù cho hưởng án treo thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Các biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu, lưu giữ trong hồ sơ vụ án 01 tờ giấy nhận tiền viết tay, lập ngày 08/9/2017 (Bản gốc).

Tại phiên tòa, Tòa án đã triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng bị hại anh Phạm Văn T và chị Võ Thị Thu N, người làm chứng ông Võ H, anh Lê Huy H, chị Phạm Thị Hồng M, anh Phạm Trọng T vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Người làm chứng anh Phạm Ngọc N vắng mặt không có lý do. Bị hại, người làm chứng đã có lời khai đầy đủ trong quá trình điều tra được lưu trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 292; khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị Q không trình bày lời bào chữa, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Cơ quan Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Trần Thị Q mặc dù không có khả năng xin việc nhưng đã đưa ra những thông tin gian dối rằng mình có khả năng xin việc làm cho người khác. Khoảng tháng 7/2017, anh Phạm Văn T và chị Võ Thị Thu N đã nhờ Quyên xin vào biên chế dạy học tại Trường mầm non H, xã Q, thị xã G, tỉnh Đắk Nông. Q hướng dẫn chị N lập 01 bộ hồ sơ xin việc gồm: Bằng tốt nghiệp, bảng điểm, giấy khám sức khỏe và một số giấy tờ khác liên quan.

Trong các ngày 06/9/2017, 08/9/2017, tại nhà của Trần Thị Q anh Phạm Văn T và chị Võ Thị Thu N giao cho Q số tiền 130.000.000 đồng và 01 bộ hồ sơ xin việc gồm các tài liệu như Q hướng dẫn. Việc giao nhận tiền được lập thành văn bản, nội dung Q nhận 130.000.000 đồng để lo cho chị Nhi vào Trường mầm non H, trong thời gian 03 tháng từ 06/9/2017 đến 30/12/2017, nếu không xin được Q sẽ trả lại số tiền trên.

Quá hạn 03 tháng nhưng không nhận được quyết định đi làm và Trần Thị Q cũng không trả lại tiền. Ngày 18/02/2019, anh Phạm Văn T và chị Võ Thị Thu N làm đơn tố cáo hành vi của Q.

Do đó có đủ căn cứ pháp lý để kết luận Trần Thị Q phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

[3] Hành vi phạm tội của Trần Thị Q là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, uy tín của cơ quan Nhà nước và gây ảnh hưởng đến quyền sở hữu tài sản của người khác, bất kỳ một hành vi chiếm đoạt trái pháp luật nào cũng đều bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật, nhưng vì động cơ muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi này của bị cáo ngoài việc xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người bị hại mà còn làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần áp dụng một hình phạt nghiêm tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Xét thấy, Trần Thị Q chưa có tiền án, tiền sự gì; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, sau phạm tội bị cáo đã bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả, phía bị hại cũng có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; hiện tại bị cáo đang nuôi con nhỏ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Trần Thị Quyên có đủ điều kiện để áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo, mà không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi cuộc sống xã hội mà cho bị cáo được tự học tập, cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám sát, giáo dục của Uỷ ban nhân dân cấp xã, phường nơi bị cáo Q đang cư trú và gia đình bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội.

[6] Tại phiên tòa, qua phần tranh luận, xét quan điểm về đường lối xử lý vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã G, tỉnh Đắk Nông là có căn cứ nên cần chấp nhận.

[7] Về dân sự: Do bị hại anh Phạm Văn T và chị Võ Thị Thu N đã nhận số tiền 130.000.000 đồng và không yêu cầu Trần Thị Q phải bồi thường gì thêm nên không đề cập giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Đối với 01 tờ giấy nhận tiền viết tay, lập ngày 08/9/2017 giữa Trần Thị Q với anh Phạm Văn T và chị Võ Thị Thu N cần tịch thu, lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

[9] Đối với số tiền 130.000.000 đồng và hồ sơ xin việc, Trần Thị Q khai đã giao lại cho anh Phạm Ngọc C để xin việc cho chị Võ Thị Thu N nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh. Quá trình điều tra, xác minh anh Phạm Ngọc C xác định không có sự việc như Q khai nên không có căn cứ để xử lý đối với anh C là có căn cứ.

[10] Về án phí: Trần Thị Q phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Thị Q phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Q 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 05 (Năm) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 29/11/2019).

Giao Trần Thị Q cho Ủy ban nhân dân phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông giám sát, giáo dục. Gia đình Trần Thị Q có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục Trần Thị Q trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp Trần Thị Q thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Áp dụng khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự: Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo Luật Thi hành án hình sự 02 (Hai) lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thục hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu, lưu giữ trong hồ sơ vụ án 01 tờ giấy nhận tiền viết tay, lập ngày 08/9/2017 giữa Trần Thị Q với anh Phạm Văn T và chị Võ Thị Thu N.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc Trần Thị Q phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong hạn mười lăm ngày tính từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn mười lăm ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:73/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Gia Nghĩa - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về