Bản án 73/2019/HNGĐ-ST ngày 20/05/2019 về ly hôn và con chung

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 73/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/05/2019 VỀ LY HÔN VÀ CON CHUNG

Ngày 20 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 710/2018/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2018 về việc ly hôn và con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 68/2019/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị T; địa chỉ: Thôn 8, xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn M; địa chỉ: Thôn 6, xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Đỗ Thị T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị T và anh Nguyễn Văn M kết hôn với nhau vào năm 2003 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng (Giấy chứng nhận kết hôn số 38 ngày 24 tháng 11 năm 2005). Quá trình chung sống hòa thuận đến khoảng năm 2006 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, anh M không quan tâm đến vợ, con. Do mâu thuẫn, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2006 đến nay. Chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc nên chị T đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh M.

- Về con chung: Chị T và anh M có một con chung là Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 27 tháng 03 năm 2003. Hiện nay con đang ở cùng với chị T. Khi ly hôn, chị T đề nghị được tiếp tục nuôi con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chị T đề nghị để chị và anh M tự thỏa thỏa thuận giao nhận cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị T trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn M mặc dù được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa án để trình bầy quan điểm về việc chị T có đơn xin ly hôn.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định pháp luật về dân sự. Tòa án đã xác định đúng thẩm quyền giải quyền vụ án, xác định đúng quan hệ pháp luật và những người tham gia tố tụng. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn và nuôi con của nguyên đơn. Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời khai của chị T tại Tòa án phù hợp với bản sao giấy đăng ký kết hôn mà chị T đã giao nộp cho Tòa án, phù hợp với tài liệu xác minh tại Ủy ban nhân dân xã C. Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện vợ chồng chị T và anh M có mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống. Anh Nguyễn Văn M hiện nay đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã C, T, Hải Phòng, đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng không đến Tòa án trình bầy quan điểm của mình. Lời khai của con chung là có nguyện vọng được ở cùng với mẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bị đơn là anh Nguyễn Văn M cư trú tại xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng; anh M vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa. Căn cứ Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên có thẩm quyền xét xử vụ án này. Căn cứ Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh M đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 29 ngày 24 tháng 11 năm 2005 tại xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng). Căn cứ vào lời khai của đương sự, tài liệu điều tra xác minh đã xác định được mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị T được ly hôn anh M .

[3]. Về con chung: Chị T và anh M có một con chung là Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 27 tháng 03 năm 2003. Chị T đang nuôi con và có yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét thấy, chị T đang trực tiếp nuôi con chung, việc nuôi con của chị T đã ổn định, chị T có đủ điều kiện nuôi con. Vì vậy, tiếp tục giao cho chị T trực tiếp nuôi con chung là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T trình bầy để chị và anh M tự giao nhận cho nhau, không đề nghị Tòa án giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Chị T trình bầy vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Mặt khác chưa có lời khai của anh M về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định án phí và lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Chị Đỗ Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn M .

2. Về con chung: Giao cho chị Đỗ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Văn Đ , sinh ngày 27 tháng 03 năm 2003; cho đến khi con đủ mười tám tuổi và có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đỗ Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009487 ngày 05 tháng 10 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Đỗ Thị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2019/HNGĐ-ST ngày 20/05/2019 về ly hôn và con chung

Số hiệu:73/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về