Bản án 73/2018/HSST ngày 26/12/2018 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 73/2018/HSST NGÀY 26/12/2018 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Trong ngày 26 tháng 12 năm 2018. Tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 68/TL-HSST ngày 13 tháng 12 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2018/QĐXX ST – HS ngày 14/12/2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Nghệ An.

Đối với bị cáo: Họ và tên: Nguyễn Trọng A; Sinh ngày: 10/02/1991, tại huyện H, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Xóm 2, xã T, huyện H, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Con ông: Nguyễn Trọng T - Sinh năm 1965; Con bà: Lê Thị K - Sinh năm 1969; Vợ, con: Chưa; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/11/2018 đến ngày 25/11/2018 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; Có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Trọng H; sinh ngày 20/5/1965. Vắng mặt. Trú tại: Xóm 2, xã T, huyện H, tỉnh Nghệ An.

Người làm chứng:

Anh: Lê Duy K – Sinh ngày: 27/01/1989. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm M, phường H, H phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 08/11/2018 Nguyễn Trọng A đến thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Nghệ An tìm mua pháo đưa về sử dụng và bán lại cho người khác. Qua dò hỏi, Nguyễn Trọng A gặp một người đàn ông không quen biết, sau khi trao đổi Nguyễn Trọng A mua của người đàn ông này 17 (Mười bảy) hộp pháo loại 36 quả, (gồm 13 hộp khối hình trụ chữ nhật, kích thước 14x14x10cm, xung quanh các hộp pháo có in dòng chữ “Brilliant”; 03 (Ba) hộp khối hình trụ chữ nhật, kích thước 14x14x12cm, xung quanh các hộp pháo đều có in dòng chữ “CHONGKOL C0835”; 01 (Một) hộp khối hình trụ chữ nhật, kích thước 14x14x12cm, xung quanh hộp pháo có in dòng chữ “CHONGKOL C0834”); 03 (Ba) túi ni lông, mỗi túi chứa 100 quả cầu hình tròn đều có đường kính 2,5cm và 03 túi ni lông, trong đó có 02 túi mỗi túi chứa 100 quả cầu hình tròn và 01 túi chứa 83 quả cầu hình tròn đều có đường kính 02 cm. Trên tất cả các quả cầu hình tròn đều kết nối một đoạn dây cháy chậm. Toàn bộ số pháo này Nguyễn Trọng A mua với giá 8.850.000 đồng (Tám triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng). Sau khi mua được pháo, An đi xe khách đưa về cất dấu tại nhà mình ở xóm 2, xã T, huyện H, tỉnh Nghệ An. Đến ngày 14/11/2018 có một người đàn ông không quen biết gọi điện thoại cho An hỏi mua pháo thì An đồng ý bán toàn bộ số pháo này với giá 10.200.000 đồng (Mười triệu hai trăm nghìn đồng), sau đó hai người thống nhất thời gian, địa điểm để giao dịch mua bán pháo. Đến khoảng 18 giờ ngày 16/11/2018 người đàn ông đó gọi điện thoại hẹn Nguyễn Trọng A đưa pháo đến khu vực ngã tư đường mòn Hồ Chí Minh thuộc xóm 7, xã T, huyện H để giao dịch mua bán. Sau khi đã thống nhất qua điện thoại, Nguyễn Trọng A lấy toàn bộ số pháo bỏ vào bì xác rắn rồi lấy xe máy hiệu ANGEL màu trắng đen BKS 37L2-7807 đưa đến khu vực ngã tư đường mòn Hồ Chí Minh thuộc xóm 7, xã T, huyện H để giao dịch mua bán thì bị lực lượng Công an huyện H và lực lượng Cảnh sát đặc doanh Công an tỉnh Nghệ An bắt quả tang và niêm phong vật chứng.

Ngày 17/11/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H thành lập Hội đồng mở niêm phong cân xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại. Sau khi loại bỏ bao bì tổng khối lượng các loại pháo đã thu giữ của Nguyễn Trọng A có tổng khối lượng là 25 kg (Hai mươi lăm kilôgam).

Bản kết luận giám định số 02/KL-PC09(CN) ngày 23/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Ba mẫu vật (ký hiệu mẫu 01, mẫu 02, mẫu 03) gửi giám định đều là pháo có đầy đủ các đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ); Hai mẫu vật (ký hiệu mẫu 04, mẫu 05 gửi giám định đều là pháo nổ. (Bút lục số 49 hồ sơ vụ án).

Vật chứng vụ án gồm: 01 (Một) bì xác rắn màu da cam, kích thước 65x44x14cm; 13 (Mười ba) hộp giấy hình trụ chữ nhật đều có kích thước 14x14x10 cm, bao quanh hộp có nhiều màu sắc khác nhau, đều in dòng chữ “Brilliant”, loại 36 quả; 03 (Ba) hộp giấy hình trụ chữ nhật đều có kích thước 14x14x12 cm, xung quanh hộp có nhiều màu sắc khác nhau, đều in dòng chữ “CHONGKOL C0835”, loại 36 quả; 01 (Một) hộp giấy hình trụ chữ nhật có kích thước 14x14x12 cm, xung quanh hộp có nhiều màu sắc khác nhau, in dòng chữ “CHONGKOL C0834”, loại 36 quả; 03 (Ba) túi ni lông, mỗi túi chứa 100 quả cầu hình tròn có đường kính 2,5cm và 03 túi ni lông, trong đó có 02 túi mỗi túi chứa 100 quả cầu hình tròn và 01 túi chứa 83 quả cầu hình tròn đều có đường kính 02 cm. Trên tất cả các quả cầu hình tròn đều kết nối một đoạn dây cháy chậm; 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu LENOVO A396 màu đen có số Imei 865489028032588 gắn thẻ sim số thuê bao 0979880222; 01 (Một) chiếc xe máy hiệu ANGEL màu trắng đen BKS 37L2-7807.

Tại bản cáo trạng số 03/CT-VKS - HS ngày 12 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Nghệ An, truy tố bị cáo Nguyễn Trọng A, về tội:“Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Trọng A mức án từ 18 đến 24 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo thu nhập không ổn định, tài sản riêng không có gì lớn, vì vậy đề nghị HĐXX miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tiêu hủy toàn bộ số pháo còn lại 23 kg thu giữ của Nguyễn Trọng A có tại Kho vật chứng của CQĐT Công an huyện H và 01 thẻ sim điện thoại có số thuê bao 0979880222 có tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H.

Hóa giá sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động thu giữ của Nguyễn Trọng A có tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Trọng A phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sơ thẩm .

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Trọng A có lời nói sau cùng: Bị cáo rất ân hận hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Trọng A đã khai nhận hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã quy kết. Lời khai nhận tội của bị cáo đã phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 19 giờ 00 ngày 16/11/2018. Tại bản kết luận giám định số 02/KL- PC09(CN) ngày 23/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: mẫu vật gửi giám định đều là pháo có đầy đủ các đặc tính của pháo nổ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đầy đủ căn cứ để xác định: Khoảng 19 giờ ngày 16/11/2018, tại khu vực ngã tư đường mòn Hồ Chí Minh thuộc xóm 7, xã T, huyện H, tỉnh Nghệ An, Nguyễn Trọng A đang chuẩn bị bán 25 kg ( Hai mươi lăm kilôgam) pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ và pháo nổ thì bị Công an huyện H và Lực lượng Đội Cảnh sát đặc doanh quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Nghệ An bắt quả tang.

Tại Điều 190 BLHS quy định: "1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 244, 246, 248, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)… c) Buôn bán pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam”.

Như vậy hành vi trên của bị cáo Nguyễn Trọng A đã phạm tội "Buôn bán hàng cấm ”. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 BLHS quy định [3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà Nước về pháo nổ. Tệ nạn sử dụng trái phép pháo nổ trong những năm gần đây có xu hướng gia tăng, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an trong xã hội là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. An là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi buôn bán pháo nổ của mình là trái pháp luật, mặt khác hiện nay Đảng và Nhà nước đang tìm mọi biện pháp để đẩy lùi tệ nạn này, nhưng do hám lợi, nhằm để thu lợi bất chính, nên bị cáo đã thực hiện tội phạm vì vậy cần phải xử phạt mức án nghiêm tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện và việc cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, bị cáo được hưởng 1 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là H khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và bố bị cáo là người có công với cách mạng được Nhà nước tăng thương Huân chương. là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H đề nghị Hội đồng xét xử cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian. Xét bị cáo phạm tội thuộc vào trường hợp nghiêm trọng, ít tình tiết giảm nhẹ, vì vậy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ cần được chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy: bị cáo đang sống cùng bố mẹ, không có tài sản riêng, làm nghề lao động tự do nguồn thu nhập không lớn, nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông đã bán pháo nổ cho bị cáo Nguyễn Trọng A tại thị trấn ĐL, quá trình điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được người đó là ai nên chưa đủ căn cứ để xử lý.

[7] Về vật chứng vụ án: 01 (Một) bì xác rắn màu da cam; 13 (Mười ba) hộp giấy hình trụ chữ nhật trên hộp in dòng chữ “Brilliant”; 03 (Ba) hộp giấy hình trụ chữ nhật trên hộp in dòng chữ “CHONGKOL C0835”; 01 (Một) hộp giấy hình trụ chữ nhật trên hộp in dòng chữ “CHONGKOL C0834”; 03 (Ba) túi ni lông, mỗi túi chứa 100 quả cầu hình tròn có đường kính 2,5cm và 03 túi ni lông, trong đó có 02 túi mỗi túi chứa 97 quả cầu hình tròn và 01 túi chứa 80 quả cầu hình tròn đều có đường kính 02 cm. Trên tất cả các quả cầu hình tròn đều kết nối một đoạn dây cháy chậm là vật chứng, bị cáo sử dụng vào việc phạm tội là vật cấm buôn bán, cấm lưu hành nên tiêu hủy.

01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu LENOVO A396 màu đen có số Imei 865489028032588, 01 thẻ sim số thuê bao 0979880222 là vật chứng Nguyễn Trọng A sử dụng vào việc phạm tội.

Xét thấy : 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu LENOVO A396 màu đen có số Imei 865489028032588 đang còn giá trị sử dụng, nên hóa giá sung công quỹ Nhà nước. 01( Một) thẻ sim số thuê bao 0979880222 không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy, 01 (Một) chiếc xe máy hiệu ANGEL màu trắng đen BKS 37L2-7807. Quá trình điều tra đã chứng minh được là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Trọng H, ông H không biết An sử dụng xe làm phương tiện vận chuyển pháo nổ đi tiêu thụ. Cơ quan điều tra Công an huyện H xử lý trả lại cho chủ sở hữu là đúng pháp luật cần được chấp nhận.

8 -Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sơ thẩm thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố: Nguyễn Trọng A phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

2- Về Điều luật áp dụng:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Trọng A 18 ( Mười tám) Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/11/2018 đến ngày 25/11/2018.

3- Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS.

Tiêu hủy: 01 (Một) bì xác rắn màu da cam; 13 (Mười ba) hộp giấy hình trụ chữ nhật, bao quanh hộp có nhiều màu sắc khác nhau, đều in dòng chữ “Brilliant”, loại 36 quả; 03 (Ba) hộp giấy hình trụ chữ nhật, xung quanh hộp có nhiều màu sắc khác nhau, đều in dòng chữ “CHONGKOL C0835”, loại 36 quả; 01 (Một) hộp giấy hình trụ chữ nhật, xung quanh hộp có nhiều màu sắc khác nhau, in dòng chữ “CHONGKOL C0834”, loại 36 quả; 03 (Ba) túi ni lông, mỗi túi chứa 100 quả cầu hình tròn có đường kính 2,5cm và 03 túi ni lông, trong đó có 02 túi mỗi túi chứa 100 quả cầu hình tròn và 01 túi chứa 83 quả cầu hình tròn đều có đường kính 02 cm. Có tại Kho vật chứng của CQĐT Công an huyện H và có đặc điểm như phiếu nhập kho vật chứng ngày 25/11/2018 của Công an huyện H.

Hóa giá sung công quỹ Nhà nước 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu LENOVO A396. Tiêu hủy01( Một) thẻ sim số thuê bao 0979880222.Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công An Huyện H và Chi cục Thi hành án dân sự huyện H lập vào ngày 13 tháng 12 năm 2018.

4-Về án phí: Áp dụng 136 BLTTHS, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Trọng A phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sơ thẩm .

5-Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

388
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2018/HSST ngày 26/12/2018 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:73/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Nguyên - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về