Bản án 10/2018/HS-ST ngày 15/03/2018 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 10/2018/HS-ST NGÀY 15/03/2018 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 15 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm lưu động công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 10/2018/TLHS-ST ngày 12 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Đinh Văn T, sinh năm 1965, tại xã HT, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.

Nơi cư trú: Xóm Lâm Liết, xã HT, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn Nh, sinh năm 1942 (đã chết) và con bà Trần Thị S, sinh năm 1942 (đã chết); bị cáo có vợ là Phạm Thị H, sinh năm 1971 hiện làm ruộng tại xóm Lâm Liết, xã HT, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2003; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” từ ngày 10/01/2018. “Có mặt”

2. Phạm Thị H, sinh năm 1971, tại thị trấn Cồn, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.

Nơi cư trú: Xóm Lâm Liết, xã HT, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Ngọc H, sinh năm 1924 (đã chết) và con bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1925 (đã chết); bị cáo có chồng là Đinh Văn T, sinh năm 1965  hiện là lao động tự do tại xóm Lâm Liết, xã HT, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2003; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” từ ngày 10/01/2018. “Có mặt”

- Người làm chứng:

1. Anh Vũ Quốc T; nơi cư trú: Xóm Lâm Liết, xã HT, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. “Vắng mặt”

2. Anh Trịnh Duy H; nơi cư trú: Xóm Lâm Liết, xã HT, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. “Vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2017, Đinh Văn T thường xuyên đi khám chữa bệnh tại bệnh viện K thuộc xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Trong lúc đứng chờ xe khách trước cổng bệnh viện, T gặp và mua của nhiều người đàn ông không rõ tên tuổi địa chỉ 9 bánh pháo đem về nhà cất giấu nhằm mục đích bán kiếm lời. Khoảng 20 giờ ngày 07/01/2018, một nam thanh niên không rõ tên tuổi địa chỉ đến hỏi mua pháo, T đồng ý và gọi điện cho Phạm Thị H là vợ bảo về nhà. Sau khi thỏa thuận, người thanh niên đồng ý mua của vợ chồng T, H 4 bánh pháo và đưa cho H số tiền 2.000.000đ, H đi đổ xăng hết 100.000đ. T ra sân phía tây nhà lấy 4 bánh pháo cho vào bao xác rắn giao cho người thanh niên. Trong lúc hai bên giao nhận pháo thì bị tổ tuần tra Công an huyện Hải Hậu bắt quả tang, thu giữ và niêm phong tang vật ký hiện A3. Quá trình điều tra, T, H tự nguyện giao nộp 5 bánh pháo cùng loại (niêm phong ký hiện A1); 110 quả pháo rời (niêm phong ký hiệu A2); 01 điện thoại di động Iphone và số tiền 1.900.000đ.

Tại bản kết luận giám định số 30/GĐKTHS ngày 08/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu A1, A2, A3 đều là pháo nổ, khi đốt có gây tiếng nổ, tổng trọng lượng là 23,694 kg.

Tại bản cáo trạng số 12/CT-VKS ngày 12/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định đã truy tố các bị cáo Đinh Văn T, Phạm Thị H về tội “Buôn bán hang cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định thực hành quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Đinh Văn T, Phạm Thị H phạm tội “Buôn bán hàng cấm”:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Đinh Văn T từ 24 đến 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi kể từ ngày tuyên án.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phạm Thị H từ 18 đến 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi kể từ ngày tuyên án.

Giao các bị cáo Đinh Văn T, Phạm Thị H cho UBND xã HT, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa cũng đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng của vụ án đã thu giữ trong quá trình điều tra, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đều khai nhận đã thực hiện hành vi đúng như nội dung vụ án đã nêu; các bị cáo thực sự ăn năn, hối cải, bị cáo Đinh Văn T trình bày hoàn cảnh hiện mắc phải ung thư giai đoạn cuối, sức khỏe rất yếu thường xuyên phải nằm viện, cần thiết phải có người trực tiếp chăm sóc nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương để các bị cáo có cơ hội tiếp tục chữa bệnh, phấn đấu trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hải Hậu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Đinh Văn T, Phạm Thị H khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, kết luận định giám định, biên bản thu giữ vật chứng cùng các tài liệu khác đã được lưu trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

[3] Vào 21 giờ 15 phút ngày 07/01/2018, tại nhà riêng thuộc xóm Lâm Liết xã HT huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định, Đinh Văn T và Phạm Thị H đã bán cho nam thanh niên không rõ tên, địa chỉ 04 bánh pháo nổ trọng lượng 9,633 kg, thu lời bất chính số tiền 2.000.000đ. Quá trình điều tra, Đinh Văn T tự nguyện giao nộp 14,061kg pháo nổ T đã mua tại Hà Nội để bán kiếm lời.

[4] Hành vi nêu trên của các bị cáo Đinh Văn T, Phạm Thị H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm” mà tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015 như Viện kiểm sát truy tố các bị cáo ra trước Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu để xét xử với tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ.

[5] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện: Hành vi phạm tội của các bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó không những xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng hóa bị cấm mà còn đe dọa xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người sử dụng. Do đó, cần xử lý nghiêm đối với các bị cáo để phòng ngừa chung.

[6] Xét vị trí, vai trò, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo thì thấy: Đinh Văn T là người chủ mưu, trực tiếp mua pháo của những người không quen biết tại Hà Nội mang về nhà cất giấu mục đích bán kiếm lời nên giữ vị trí số 1 trong vụ án. Khi có đối tượng hỏi mua, Phạm Thị H là vợ cũng tham gia việc thỏa thuận, trực tiếp nhận tiền bán pháo nên giữ vị trí số 2 trong vụ án. Các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Đinh Văn T đã có thời gian tham gia quân đội hiện là cựu quân nhân xã HT, hiện mắc bệnh hiểm nghèo đang điều trị tại bệnh viện K Hà Nội, sức khỏe rất yếu cần phải có người thường xuyên chăm sóc; các bị cáo có đơn trình bày hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật lại neo người nên xin cải tạo tại địa phương được chính quyền địa phương xác nhận. Do đó, các bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà hôm nay là phù hợp.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn lại đang mắc bệnh hiểm nghèo, việc chạy chữa rất tốn kém. Xét không cần thiết phải áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với các bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà là phù hợp.

[8] Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung quỹ số tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng) do các bị cáo thu lời bất chính mà có. Tịch thu tiêu hủy 23,694 kg pháo nổ đã gửi giám định ký hiệu A1, A2, A3. Chiếc điện thoại di động Iphone là tài sản hợp pháp của Phạm Thị H không sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra Công an huyện Hải Hậu đã trả lại cho H quản lý, sử dụng là phù hợp pháp luật.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố các bị cáo Đinh Văn T, Phạm Thị H phạm tội “Buôn bán hàng cấm”. 

- Xử phạt bị cáo Đinh Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án.

- Xử phạt bị cáo Phạm Thị H 18 (mười tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (ba mươi sáu) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao các bị cáo Đinh Văn T, Phạm Thị H cho Ủy ban nhân dân xã HT, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

2. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng) do các bị cáo thu lời bất chính mà.

- Tịch thu tiêu hủy 23,694kg pháo nổ là mẫu vật hoàn trả sau giám định ký hiệu A1, A2, A2 số 30/GĐKTHS ngày 08/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

(Các vật chứng nêu trên được mô tả như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Hậu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu ngày 28/02/2018 và Biên lai thu tiền số AA/2012/07472 ngày 28/02/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu).

3. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, buộc các bị cáo Đinh Văn T, Phạm Thị H mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

511
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2018/HS-ST ngày 15/03/2018 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:10/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về