Bản án 726/2017/HNGĐ-ST ngày 09/11/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 726/2017/HNGĐ-ST NGÀY 09/11/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 09 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 591/2017/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2017 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 375/2017/QĐXX-ST ngày 16 tháng 10 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị D sinh năm 1990; Địa chỉ: Thôn 4, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Lê Minh D sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn 4, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 05 tháng 7 năm 2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị D trình bày:

Về hôn nhân: Chị Lê Thị D kết hôn với anh Lê Minh D trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thủy Sơn, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng vào ngày 10 tháng 10 năm 2013. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, anh D thường xuyên xúc phạm, đánh đập chị. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 01 năm 2015 cho đến nay. Chị D nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh D.

Về con chung: Chị Lê Thị D khai chị và anh D có hai con chung tên Lê Đình A1 sinh ngày 18 tháng 4 năm 2014 và Lê Thị Ngọc A sinh ngày 28 tháng 7 năm 2016. Hiện chị D đang nuôi con tên Lê Thị Ngọc Á, anh D nuôi con tên Lê Đình Anh. Khi ly hôn chị D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung Lê Thị Ngọc Á và yêu cầu Tòa án giao cho anh D trực tiếp nuôi con Lê Đình A1. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị D và anh D tự thỏa thuận giao nhận với nhau nên chị Thủy không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Lê Thị D khai chị và anh Lê Minh D không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Lê Minh D đã nhận được Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác do Tòa án tống đạt nhưng đến ngày mở phiên tòa, anh D vẫn không có mặt để trình bày ý kiến về việc chị Thủy xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Về hôn nhân, tài liệu điều tra có trong hồ sơ thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Lê Thị D và anh Lê Minh D được ly hôn. Về con chung: Chị D, anh D có hai con chung Lê Đình Anh sinh ngày 18 tháng 4 năm 2014 và Lê Thị Ngọc Ánh sinh ngày 28 tháng 7 năm 2016. Khi ly hôn chị D xin được trực tiếp nuôi con chung tên Lê Thị Ngọc Ánh, để anh D nuôi con tên Lê Đình Anh. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và Gia đình xử giao cho chị D trực tiếp nuôi con chung là Lê Thị Ngọc Ánh sinh ngày 28 tháng 7 năm 2016 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; anh D trực tiếp nuôi con chung tên Lê Đình Anh sinh ngày 18 tháng 4 năm 2014. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết. Chị D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Bị đơn là Lê Minh D vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Lê Minh D.

 [2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Lê Thị D và anh Lê Minh D là hợppháp. Quá trình chung sống vợ chồng  hòa thuận hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo tài liệu xác minh tại địa phương và gia đình anh D thể hiện nguyên nhân mâu thuẫn là do anh tính tình giữa anh D và chị D không hòa hợp, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn giữa chị D, anh D đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả, vợ chồng sống ly thân từ tháng 01 năm 2015 cho đến nay. Mặt khác, anh Lê Minh D hiện vẫn có mặt tại địa phương và biết rõ chị D xin ly hôn. Tòa án đã triệu tập anh D nhiều lần nhưng anh D vẫn vắng mặt thể hiện anh D không mong muốn Tòa án hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị D và anh Lê Minh D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Lê Thị D được ly hôn anh Lê Minh D.

 [3] Về con chung: Chị Lê Thị D và anh Lê Minh D có 02 con chung tên Lê Đình Anh sinh ngày 18 tháng 4 năm 2014 và Lê Thị Ngọc Ánh sinh ngày 28 tháng 7 năm 2016. Khi ly hôn chị D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung Lê Thị Ngọc Ánh và giao cho anh D trực tiếp nuôi con chung Lê Đình Anh. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét từ khi sống ly thân đến nay, chị D là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lê Thị Ngọc Ánh và anh D trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lê Đình Anh và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Vì vậy, có thể giao cho chị Lê Thị D được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Lê Thị Ngọc Ánh sinh ngày sinh ngày 28 tháng 7 năm 2016 và giao cho anh Lê Minh D được trực tiếp nuôi con chung là Lê Đình Anh sinh ngày 18 tháng 4 năm 2014 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị D trình bày để chị và anh D tự thỏa thuận giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

 [4] Về tài sản chung: Chị Lê Thị D khai chị và anh Lê Minh D không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Mặt khác, chưa có lời khai của anh D nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

 [5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị Vũ Thị Thanh Thủy phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Thị D và anh Lê Minh D.

2. Về con chung: Giao cho chị Lê Thị D trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Lê Thị Ngọc Á sinh ngày sinh ngày 28 tháng 7 năm 2016; Giao cho anh Lê Minh D trực tiếp nuôi con chung là Lê Đình A1 sinh ngày 18 tháng 4 năm 2014 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lê Thị D và anh Lê Minh D tự thỏa thuận giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về án phí: Chị Lê Thị D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0005744 ngày 24 tháng 8 năm 2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, chị Lê Thị D đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Lê Thị D, anh Lê Minh D có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 726/2017/HNGĐ-ST ngày 09/11/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:726/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về