Bản án 72/2021/HNGĐ-ST ngày 04/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 72/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 04 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 51/2021/HNGĐ- ST ngày 01/4/2021, về việc '' Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung " theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 67/2021/QĐ-ST ngày 24/5/2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Thu H, sinh năm 1978.HKTT : Khu tập thể B, phường T, Thành phố H, tỉnh Hải Dương.Hiện ở : Số 192 B Văn Thái, phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

2. Bị đơn : Anh Vũ Ngọc B, sinh năm 1973.Nơi cư trú trước khi xuất cảnh : Khu tập thể B, phường T, Thành phố H, tỉnh Hải Dương. Hiện ở Australia (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - Nguyên đơn chị Bùi Thị Thu H trình bầy: Chị và anh Vũ Ngọc B tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương ngày 26/01/2000. Vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên xảy ra xung đột. Thời gian vợ chồng ly thân anh B sống ở Nhật Bản, còn chị ở Việt Nam.

Tháng 5/2019 anh B hết hạn lao động về Việt Nam nhưng vợ chồng không chung sống cùng nhau. Đến tháng 3/2020 anh B tiếp tục sang Austraylia lao động, vợ chồng chấm dứt liên lạc. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh B.

Về con chung : Vợ chồng chị có 2 con chung là Vũ Quang C, sinh ngày 06/6/2000 và Vũ Hoàng T, sinh ngày 28/5/2008. Hiện tại cháu C đã trưởng thành, ly hôn chị không đề nghị xem xét giải quyết. Đối với cháu T chị có nguyện vọng được nuôi con. Chị tự nguyện không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung : Không có, ly hôn không đề nghị Tòa án giải quyết Trong quá trình giải quyết vụ án do chị H không cung cấp được địa chỉ của anh Vũ Ngọc B tại Austraylia nên Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã lấy lời khai của chị Vũ Thị M và chị Vũ Thị N là chị ruột của anh B. Chị M, chị N xác định bố mẹ đẻ của các chị là cụ Vũ Văn H và cụ Nguyễn Thị X đã ngoài 90 tuổi, hiện không còn minh mẫn, đang sống cùng con tại Thành phố Thái Nguyên. Anh B đang lao động tại Austraylia, nhưng thường xuyên liên lạc với chị N sinh sống tại Thành phố Hải Dương qua điện thoại. Đôi khi anh B cũng có liên lạc với chị M sinh sống tại Thành phố N để hỏi thăm sức khỏe của bố mẹ. Chị N xác định chị không biết địa chỉ của anh B ở nước ngoài nên không thể cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên anh B thường xuyên liên lạc với cho chị. Chị đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh B biết. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, chị N xác định đã thông tin cho anh B. Anh B có quan điểm xác định tình cảm vợ chồng không còn, đồng ý ly hôn và đề nghị được giải quyết vắng mặt. Về con chung anh đồng ý để chị H nuôi cháu T, đối với cháu C đã trưởng thành nên anh không đề nghị Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung không đề nghị Tòa án xem xét giải quyết.

Cháu Vũ Hoàng T là con chung của chị H, anh B có nguyện vọng được ở với mẹ khi bố mẹ ly hôn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối giải quyết: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị H, anh B đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị H được ly hôn anh B. Về con chung: giao cháu Vũ Hoàng T, sinh ngày 28/5/2008 cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung.

Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H không cung cấp được địa chỉ của anh B tại Austraylia. Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình anh B cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Do vậy áp dụng công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành giải quyết theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị H có quan điểm xin được xét xử vắng mặt. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị Thu H và anh Vũ Ngọc B tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố Hải Dương ngày 26/01/2000, do vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, không tìm thấy tiếng nói chung, anh B sang Nhật Bản lao động, chị H ở Việt Nam, hai bên sống ly thân, không quan tâm đến nhau. Tháng 5/2019 anh B về Việt Nam nhưng hai bên không ở cùng nhau, tháng 3/2020 anh B tiếp tục đi lao động tại Austraylia. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn. Thông qua gia đình, anh B có quan điểm đồng ý ly hôn. Xét thấy, thực tế cả hai đều xác định tình cảm vợ chồng không còn nên có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

- Về con chung: chị Bùi Thị Thu H và anh Vũ Ngọc B có hai con chung là Vũ Quang C, sinh ngày 06/6/2000 và Vũ Hoàng T, sinh ngày 28/5/2008. Hiện tại cháu C đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Cháu T đang ở với chị H, cháu có nguyện vọng được ở với mẹ. Chị H có nguyện vọng được nuôi con khi ly hôn. Xét thực tế anh B đang ở nước ngoài, nên việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung sẽ khó khăn hơn so với chị H. Do vậy cần tiếp tục giao cháu T cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

[3].Về án phí: Chị Bùi Thị Thu H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, khoản 2 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị Thu H được ly hôn anh Vũ Ngọc B.

2.Về con chung: Cháu Vũ Quang C, sinh ngày 06/6/2000 đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết. Giao con chung Vũ Hồng T, sinh ngày 28/5/2008 cho chị Bùi Thị Thu H nuôi dưỡng cho đến khi con chung tròn 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Anh B được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí: chị Bùi Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp, theo biên lai thu số AA/2018/0005812 ngày 30 tháng 3 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị H đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Bùi Thị Thu H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Anh Vũ Ngọc B được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2021/HNGĐ-ST ngày 04/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:72/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về