Bản án 72/2020/HSST ngày 19/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 72/2020/HSST NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 05 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 73/2020/HSST ngày 13 tháng 04 năm 2020; Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 05 năm 2020, đối vớicác bị cáo:

1. Họ và Tên: Bùi Thị Q, (tên gọi khác: Không); Giới tính: Nữ; Sinh năm 1989, tại Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm V, xã Đồng M (nay là xã Thống N), huyện L, tỉnh Hòa Bình; Trình độ văn hoá: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Con ông Bùi Văn B và bà Bùi Thị P; Gia đình có 8 chị em bị cáo là con thứ 7; Có 01 con sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: chưa có;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/10/2019 đến ngày 02/11/2019 chuyển tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay, (Có mặt).

2. Họ và Tên: Bùi Văn C, (tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam; Sinh năm 1990, tại Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm C, xã H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình; Trình độ văn hoá: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Con ông Bùi Văn C và bà Bùi Thị N; Gia đình có 03 anh em bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: chưa có;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/10/2019 đến ngày 02/11/2019 chuyển tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay, (Có mặt).

Bị hại: Anh Thường Tuấn P, sinh năm 1972; Trú tại: số nhà 543, thôn Đ, xã L, thành phố L, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc; Người đại diện theo ủy quyền: Anh Vũ Văn D, sinh năm 1970; Trú tại: thôn S, xã A, huyện B, tỉnh Hà Nam; Văn bản ủy quyền ngày 23/12/2019, (Có mặt).

Người bào chữa cho cáo bị cáo Bùi Thị Q và Bùi Văn C: ông Phạm Duy Hưng, Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tấm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Ninh Bình, (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Bùi Văn T, sinh năm 1999; Trú tại: xóm C, xã H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình, (Vắng mặt).

2. Anh Quách Văn T1, sinh năm 2001; Trú tại: xóm C, xã H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình, (Vắng mặt).

3. Anh Lê Tuấn A, sinh năm 1989; Trú tại: số nhà 257, đường T, phố K, phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình, (Vắng mặt).

4. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1992; Trú tại: xã T, huyện N, tỉnh Ninh Bình, (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 7/2019, qua một người bạn Trung Quốc, Bùi Thị Q quen biết với anh Thường Tuấn P sinh năm 1972, làm nghề kinh doanh rèm cửa và xe đạp điện tại số nhà 543, thôn Đ, xã L, thành phố L, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Đến tháng 8 năm 2019, anh Thường Tuấn P sang Việt Nam thuê Bùi Thị Q làm phiên dịch và nhờ Q tìm thuê nhà ở địa bàn thành phố N để mở cửa hàng kinh doanh rèm cửa, xe đạp điện. Đến tháng 9/2019, Bùi Thị Q tìm và thuê cho anh Thường Tuấn P số nhà 165 đường T, phố K, phường N, thành phố N để mở cửa hàng kinh doanh. Ngoài làm phiên dịch cho anh P, Q còn được anh P giao cho bán hàng cũng như giới thiệu sản phẩm tại cửa hàng. Sau khi đã thuê được nhà để mở cửa hàng, anh Thường Tuấn P đã chuyển số hàng hóa, đồ đạc mua được của chị Đỗ Thị N sinh năm 1960, trú tại số 133, khu Dây Thép, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh L để chuẩn bị kinh doanh gồm: Các bộ rèm cửa, vải may rèm, khung rèm, khung và vật tư làm rèm cùng xe đạp điện hiệu MeiLING đến số nhà 165 đường T, phố K, phường N, thành phố N. Để phục vụ đi lại, ăn ở anh Thường Tuấn P nhờ Q dẫn đi mua 01 xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo, biển kiểm soát 35N6-0212 của anh Lê Tuấn A sinh năm 1984, trú tại số 257, đường T, phố B, phường N, thành phố N; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 Pro ở cửa hàng điện thoại; mua 02 giường gỗ xoan và 02 bàn gỗ ép tại cửa hàng đồ gỗ Thăng Tiến, phường N, thành phố N và nhiều đồ dùng khác cho cửa hàng. Ngoài ra, anh Thường Tuấn P còn nhờ Q đi mua khóa để khóa cửa hàng, sau khi mua được khóa cửa gồm 3 chìa, Q về đưa lại cho anh P 2 chiếc chìa khóa còn giữ lại 01 chìa Q cất giấu trong người. Trong thời gian chuẩn bị mở cửa hàng, Bùi Văn C là bạn quen biết với Bùi Thị Q từ trước cũng đến phụ bán hàng và giới thiệu sản phẩm cùng với Q, anh P cho Q và C được ở lại cửa hàng cùng với anh P để tiện kinh doanh. Đến đầu tháng 10/2019, do hết hạn thị thực phải về nước và không tin tưởng Q, C nên anh P đã cho Bùi Thị Q nghỉ việc đồng thời thu lại 02 chìa khóa cũng như yêu cầu Q, C dọn hết tài sản của Q, C ra khỏi cửa hàng. Ngày 05/10/2019, trước khi Q, C ra khỏi cửa hàng, anh P kiểm lại số hàng hóa, phương tiện vẫn đầy đủ nên khóa cửa và đi về Trung Quốc làm thủ tục cấp thị thực không giao cửa hàng, tài sản lại cho ai quản lý. Do không có tiền tiêu sài và biết anh P về Trung Quốc không có mặt tại Việt Nam trong một thời gian, cửa hàng không có người trông coi bản thân lại đang giữ chìa khóa của cửa hàng nên Q nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Bùi Thị Q rủ Bùi Văn C đến cửa hàng của anh P trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu sài cá nhân, C đồng ý. Ngày 18/10/2019, C dùng xe mô tô hiệu Honda Blade, biển kiểm soát 28F1-089.37 chở Q và rủ bạn là Bùi Văn T sinh năm 1999 và Quách Văn T1 sinh năm 2001, đều trú tại xóm C, xã H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình xuống thành phố N và vào cửa hàng của anh P chơi. Khi ở cửa hàng của anh P thấy Q có nhiều điện thoại cảm ứng nên anh T hỏi Q cho mượn một chiếc, Q đồng ý và lấy chiếc điện thoại Samsung J7 Pro của anh P đưa cho anh T mượn và yêu cầu anh T để điện thoại chế độ máy bay và chỉ dùng để vào mạng không được dùng để liên lạc, gọi điện. Sau khi anh T1 và anh T đi về, C gọi điện thoại thuê xe tải và hẹn lái xe sáng ngày 19/10/2019 cho xe đến cửa hàng của anh P ở số nhà 165 đường T, phố K, phường N, thành phố N để bốc hàng. Cũng trong buổi tối ngày 18/10/2019, Q và C đã lấy chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo, biển kiểm soát 35N6- 0212 mang đến nhà nghỉ của anh Lê Tuấn A sinh năm 1984, trú tại số 257, đường T, phố B, phường N bán lại cho anh Tuấn A với giá 2.000.000đồng. Sáng ngày 19/10/2019, C gọi điện nhờ anh T1 và anh T đến cửa hàng của anh P bốc hộ hàng lên xe tải, anh T1 và anh T đồng ý. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 19/10/2019, anh Nguyễn Văn H sinh năm 1992, trú tại thôn Lái, xã T, huyện N, tỉnh Ninh Bình là lái xe tải C đã thuê tối hôm trước, điều khiển xe tải biển kiểm soát 35C- 026.25 đến cửa hàng của anh P. Sau khi xe tải đến, Q, C nhờ các anh T1, anh T chuyển tài sản lên xe tải gồm: 01 chiếc xe đạp điện màu đỏ, nhãn hiệu MeiLING; 280 chiếc chụp đầu ống, chất liệu nhựa, mỗi chụp có hình trụ cầu, đường kính rộng nhất 6,5 cm, cao 10cm; 50 cây ống chất liệu kim loại, mỗi cây dài 6,7m, đường kính 0,28m; 350 chiếc chân đế đỡ, chất liệu kim loại, mỗi chân đế kích thước lần lượt là (11 x 1,9 x 6,7) cm; 5490 chiếc khong rèm, chất liệu nhựa, mỗi khong có đường kính ngoài 7,1cm, đường kính trong 04cm, độ dày 01cm; 39 cuộn URE, mỗi cuộn hình tròn đường kính 20cm, độ dày 08cm; 02 chiếc giường, chất liệu gỗ xoan, mỗi giường kích thước (1,26 x 2)m; 02 bàn làm việc, chất liệu gỗ ép, mỗi bàn kích thước (100 x 50 x 73)cm; 56m2 vải trơn bóng, màu đỏ đô vàng; 56m2 vải thêu, màu vàng xanh; 213,64m2 vải trơn bóng, màu xám; 218,4 m2 vải kẻ, màu vàng đồng; 187,6 m2 vải xước thổ cẩm, màu vàng; 206,08 m2 vải trơn bóng, màu hồng; 197,12 m2 vải trơn bóng, màu xanh xám; 187.6 m2 vải kẻ, màu nâu hồng; 224m2 vải trơn bóng, màu đồng; 212,1m2 vải màu hồng tím; 212,8 m2 vải trơn bóng, màu tím; 187,6 m2 vải xước thổ cẩm, màu xám xanh; 190,12 m2 vải trơn bóng, màu phấn hồng; 89,6 m2 vải trơn bóng, màu nâu vàng; 166,88 m2 vải trơn bóng, màu tím hồng; 229,6 m2 vải trơn bóng, màu ánh bạc; 187,6m2 vải trơn bóng, màu tím hồng; 204,96 m2 vải trơn bóng, màu vàng; 01 rèm vải trơn bóng, màu đỏ đô, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải thêu, màu vàng xanh, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải trơn bóng, màu xám, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải kẻ, màu vàng đồng, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải xước thổ cẩm, màu vàng, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải trơn bóng, màu hồng, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải trơn bóng, màu xanh xám, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải kẻ, màu nâu hồng, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải trơn bóng, màu đồng, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải màu hồng tím, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải trơn bóng, màu tím, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải xước thổ cẩm, màu xám xanh, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải trơn bóng, màu phấn hồng, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải trơn bóng, màu nâu vàng, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải trơn bóng, màu tím hồng, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải trơn bóng, màu ánh bạc, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải trơn bóng, màu tím hồng, kích thước (2,8 x 2,8) m; 01 rèm vải trơn bóng, màu vàng, kích thước (2,8 x 2,8) m rồi yêu cầu lái xe chở toàn bộ số hàng trên về nhà Bùi Thị Q ở xóm V, xã Đ, huyện L, tỉnh Hòa Bình cất giấu.

Căn cứ vào các tài liệu điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở Bùi Thị Q ở xóm V, xã Đ, huyện L, tỉnh Hòa Bình thu giữ: 01 chiếc xe đạp điện màu đỏ, nhãn hiệu MeiLING; 280 chiếc chụp đầu ống, chất liệu nhựa, mỗi chụp có hình trụ cầu, đường kính rộng nhất 6,5cm, cao 10cm; 50 cây ống, chất liệu kim loại, mỗi cây dài 6,7 m, đường kính 0,28 m; 350 chiếc chân đế đỡ, chất liệu kim loại, mỗi chân đế kích thước lần lượt là (11 x 1,9 x 6,7) cm; 5490 chiếc khong rèm, chất liệu nhựa, mỗi khong có đường kính ngoài 7,1cm, đường kính trong 04cm, độ dày 01cm; 39 cuộn URE, mỗi cuộn hình tròn đường kính 20cm, độ dày 08cm; 02 chiếc giường, chất liệu gỗ xoan, mỗi giường kích thước (1,26 x 2) m; 02 bàn làm việc, chất liệu gỗ ép, mỗi bàn kích thước (100 x 50 x 73) cm; 56 m2 vải trơn bóng, màu đỏ đô vàng; 56m2 vải thêu, màu vàng xanh; 213,64m2 vải trơn bóng, màu xám; 218,4 m2 vải kẻ, màu vàng đồng; 187,6 m2 vải xước thổ cẩm, màu vàng; 206,08 m2 vải trơn bóng, màu hồng; 197,12 m2 vải trơn bóng, màu xanh xám; 187.6 m2 vải kẻ, màu nâu hồng; 224 m2 vải trơn bóng, màu đồng; 212,1 m2 vải màu hồng tím; 212,8 m2 vải trơn bóng, màu tím; 187,6 m2 vải xước thổ cẩm, màu xám xanh; 190,12 m2 vải trơn bóng, màu phấn hồng; 89,6 m2 vải trơn bóng, màu nâu vàng; 166,88 m2 vải trơn bóng, màu tím hồng; 229,6 m2 vải trơn bóng, màu ánh bạc; 187,6 m2 vải trơn bóng, màu tím hồng; 204,96 m2 vải trơn bóng, màu vàng; 01 rèm vải trơn bóng, màu đỏ đô, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải thêu, màu vàng xanh, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải trơn bóng, màu xám, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải kẻ, màu vàng đồng, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải xước thổ cẩm, màu vàng, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải trơn bóng, màu hồng, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải trơn bóng, màu xanh xám, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải kẻ, màu nâu hồng, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải trơn bóng, màu đồng, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải màu hồng tím, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải trơn bóng, màu tím, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải xước thổ cẩm, màu xám xanh, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải trơn bóng, màu phấn hồng, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải trơn bóng, màu nâu vàng, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải trơn bóng, màu tím hồng, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải trơn bóng, màu ánh bạc, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải trơn bóng, màu tím hồng, kích thước (2,8 x 2,8)m; 01 rèm vải trơn bóng, màu vàng, kích thước (2,8 x 2,8)m. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe mô tô Yamaha 35N6-0212 do anh Lê Tuấn A giao nộp và 01 điện thoại di dộng SamSung J7 Pro do anh Bùi Văn T giao nộp; thu giữ của Bùi Thị Q 01 chiếc điện thoại di động Oppo A7, của Bùi Văn T 01 chiếc điện thoại di động Oppo A59s màu vàng đồng và 01 xe mô tô hiệu Honda BLADE màu đỏ đen, biển kiểm soát 28F1-089.37.

Tại bản Kết luận định giá số 90 ngày 30/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố N kết luận: Toàn bộ số tài sản do Bùi Thị Q, Bùi Văn C trộm cắp của anh Thường Tuấn P ngày 18/10/2019 và 19/10/2019 có tổng trị giá là 137.231.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số số 71/CT-VKS ngày 10/04/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh Ninh Bình đã truy tố các bị cáo Bùi Thị Q và Bùi Văn C về tội “Trộm cắp tài sản”; theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự (BLHS).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Bùi Thị Q và Bùi Văn C đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên; Các bị cáo và người bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về các kết luận định giá tài sản trong tố tụng Hình sự số 90 ngày 30/10/2019 của UBND thành phố N, tỉnh Ninh Bình.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo Bùi Thị Q và Bùi Văn C đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS; Xử phạt Bùi Thị Q từ 27 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2019. - Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 BLHS; Xử phạt Bùi Văn C từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2019.

Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự  trả lại cho anh Lê Tuấn A số tiền 2.000.000 đồng các bị cáo tự nguyện nộp lại do phạm tội mà có.

Các bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Người bào chữa cho các bị cáo đề nghị HĐXX áp dụng điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS đối với các bị cáo; áp dụng thêm khoản 2 Điều 54 BLHS đối với bị cáo Bùi Văn C để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; đồng thời miễn án phí hình sự cho các bị cáo.

Các bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của Kiểm sát viên.

Người đại diện theo ủy quyền của người bị hại đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: đơn trình báo của người bị hại; Biên bản khám nghiệm hiện trường; vật chứng đã thu giữ; Bản kết luận định giá sản số 90 ngày 30/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố N và nội dung Bản cáo trạng. Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận: Trong hai ngày 18 và 19/10/2019, tại số nhà 165 đường T, phố K, phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình. Bùi Thị Q, Bùi Văn C đã có hành vi lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt của anh Thường Tuấn P. Trong đó ngày 18/10/2019, Q và C lấy chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo, biển kiểm soát 35N6-0212 và 01 điện thoại di dộng SamSung J7 có tổng trị giá 5.300.00 đồng; ngày 19/10/2019, Q và C lấy 01 chiếc xe đạp điện màu đỏ, nhãn hiệu MeiLING và nhiều rèm, khung rèm, vải rèm, phụ kiện làm rèm có tổng giá trị 131.931.000 đồng. Tổng tài sản các bị cáo chiếm đoạt là 137.231.000 đồng.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, trách nhiệm hình sự, phạm tội do lỗi cố ý; Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự thấy: hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại bản cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội đối với các bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà là có căn cứ. Vì vậy, hành vi nêu trên của các bị cáo là phạm tội “Trộm cắp tài sản”; thuộc trường hợp “chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng” được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS.

Vụ án có 02 bị cáo cùng tham gia thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, để cá thể hóa trách nhiệm hình sự của từng bị cáo thấy rằng: đối với Bùi Thị Q do không có tiền tiêu sài và biết anh P về Trung Quốc không có mặt tại Việt Nam trong một thời gian, cửa hàng không có người trông coi bản thân lại đang giữ chìa khóa của cửa hàng nên Q nảy sinh ý định trộm cắp tài sản và rủ Bùi Văn C đến cửa hàng của anh P trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu sài cá nhân, do đó bị cáo có vai trò đầu trong vụ án; đối với Bùi Văn C sau khi được Q rủ đi trộm cắp mặc dù đã can ngăn nhưng do Q nói không sao đâu nên đã đồng ý và cùng thực hiện hành vi trộm cắp với Q, do đó bị cáo có vai trò sau bị cáo Q.

Tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện nộp lại số tiền 2.000.000 đồng do phạm tội mà có để khắc phụ hậu quả; người đại diện theo ủy quyền của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; các bị cáo đều là người dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Do vậy, các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS;

Về tình tiết tăng nặng: các bị cáo thực hiện trộm cắp trong ngày 18 và 19/10/2019 thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của từng bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt tương xứng với mức độ phạm tội của mỗi bị cáo đã gây ra, cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để các bị cáo học tập, cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội. Đối với Bùi Văn C có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, phạm tội do bị rủ dê lôi kéo, do đó cần áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS để quyết định một mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

[3] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: - Quá trình điều tra cơ quan CSĐT công an thành phố N đã thu giữ 01 chiếc xe đạp điện màu đỏ, nhãn hiệu MeiLING, 01 xe mô tô Yamaha 35N6-0212, 01 điện thoại di dộng SamSung J7 và nhiều rèm, khung rèm, vải rèm, phụ kiện làm rèm là số tài sản của anh Phương mà các bị cáo đã chiếm đoạt. Anh P đã có đơn đề nghị nhận lại tài sản và không có ý kiến gì, đồng thời anh Phương ủy quyền cho anh Vũ Văn D nhận lại tài sản; ngày 10/04/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã có quyết định số 01 quyết định trả lại tài sản, anh đã nhận lại toàn bộ tài sản của anh P và không có ý kiến đề nghị gì.

- Đối với chiếc điện thoại C dùng để liên lạc thuê xe đến chở hàng, gọi người đến chuyển hàng C đã làm mất nên không thu giữ được.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda BLADE màu đỏ đen, biển kiểm soát 28F1-089.37 là xe của ông Bùi Văn C1 sinh năm 1970, trú tại xóm C, xã H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình (là bố đẻ của Bùi Văn C). Ông C1 cho C mượn chiếc xe mô tô trên để làm phương tiện đi làm. Ngày 19/10/2019, Chiển dùng xe chở Q xuống thành phố N trộm cắp tài sản, ông C1 không biết nên không vi phạm; 01 chiếc điện thoại di động Oppo A59s màu vàng đồng là tài sản của Bùi Văn C không liên quan đến vụ án, Chiển đã ủy quyền cho ông C1 nhận lại. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N trả lại cho ông Bùi Văn C1 xe mô tô trên và 01 điện thoại di động do C ủy quyền, ông C1 nhận số tài sản trên và không có yêu cầu, đề nghị gì.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động Oppo A7 thu giữ của Bùi Thị Q là tài sản của Q không liên quan đến vụ án. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trả lại cho anh Bùi Văn T, sinh năm 1992, trú tại xóm V, xã Đ, huyện Y, tỉnh Hòa Bình là người được Q ủy quyền là có căn cứ đúng quy định của pháp luật

[4]. Các biện pháp tư pháp: số tiền 2.000.000 đồng anh Tuấn A bỏ ra mua chiếc xe mô tô Yamaha 35N6-0212 của Bùi Thị Q, Bùi Văn C mặc dù anh Tuấn A không yêu cầu đề nghị Q, C phải bồi hoàn. Tuy nhiên quá trình điều tra Q và C đã tự giao nộp lại số tiền trên đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N theo biên lai thu tiền số AA/2019/0000189 ngày 11/03/2020 để hoàn trả cho anh Tuấn A, do vậy cần trả lại cho anh Tuấn A số tiền trên.

[5]. Các vấn đề khác:

- Đối với anh Lê Tuấn A là chủ nhà nghỉ ở số nhà 257, đường T, phố K, phường N, thành phố N là người đã mua lại 01 xe mô tô Yamaha 35N6-0212 của Q và C. Anh Tuấn A không biết chiếc xe trên do Q và C trộm cắp mà có nên không vi phạm.

- Đối với anh Bùi Văn T sinh năm 1999 và anh Quách Văn T1 sinh năm 2001, đều trú tại xóm C, xã H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình là người đã đến giúp Q và C bê số tài sản từ cửa hàng của anh Thường Tuấn P lên xe ô tô tải, T là người mượn chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 của Q. Nhưng anh T1 và anh T không biết số tài sản trên do Q và C trộm cắp mà có nên không vi phạm. - Đối với anh Nguyễn Văn H sinh năm 1992, trú tại xã T, huyện N, tỉnh Ninh Bình là lái xe ô tô tải 35C-026.25 chở thuê đồ cho Q và C từ số nhà 465, đường T, phố K, phường N, thành phố N về nhà Q tại xóm V, xã Đ, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Anh H không biết là tài sản do Q và C trộm cắp mà có nên không vi phạm.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm các bị cáo đều là người dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu án phí Tòa án:

Vì các lẽ trên; 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS đối với Bùi Thị Q;

- Điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 BLHS đối với Bùi Văn C Điều 46 BLHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: các bị cáo Bùi Thị Q và Bùi Văn C đều phạm tội "Trộm cắp tài sản”.

1.1. Xử phạt bị cáo Bùi Thị Q 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2019.

1.2. Xử phạt bị cáo Bùi Văn C 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2019.

2. Các biện pháp tư pháp: trả lại cho anh Lê Tuấn A số tiền 2.000.000 đồng các bị cáo đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0000189 ngày 11/03/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N.

3. Về án phí: các bị cáo Bùi Thị Q và Bùi Văn C không phải nộp.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Những người liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2020/HSST ngày 19/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:72/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về