Bản án 72/2020/HS-ST ngày 14/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

 BẢN ÁN 72/2020/HS-ST NGÀY 14/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 14 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 69/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Tô Văn C; tên gọi khác: Không, sinh ngày 08 tháng 11 năm 1986 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ X, khối Y, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; dân tộc: Nùng; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Không; con ông Tô A K, sinh năm 1958 và bà Hoàng Thị L, sinh năm 1957; có vợ Hoàng Thị Q, sinh năm 1986 và có 01 con, sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không có án tích và chưa bị xử phạt hành chính và bị xử lý kỷ luật lần nào; bị bắt để tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/02/2020 đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Tô A K; trú tại: Tổ X, khối Y, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 10 giờ 30 phút, ngày 14/02/2020 tổ công tác của Công an thành phố L trong khi làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa nhà số X1, đường B, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã phát hiện bắt quả tang Tô Văn C đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trong lòng bàn tay trái của Tô Văn C 01 gói giấy màu trắng bên trong có gói giấy màu trắng có dòng kẻ chứa chất bột màu trắng, Tô Văn C khai nhận là chất Heroine. Ngoài ra còn tạm giữ một số đồ vật, giấy tờ gồm: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA DREAM, màu sơn nâu, biển kiểm soát 12F5-8804; 01 giấy chứng minh nhân dân số 082018178 mang tên Tô Văn C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen.

Bản kết luận giám định số 78/KL-PC09 ngày 15/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: "Chất bột màu trắng thu giữ của Tô Văn C đã giám định là chất ma túy Heroine có tổng khối lượng 0,108 gam (đã trừ bì)".

Tại Cơ quan điều tra, Tô Văn C khai nhận như sau: Bản thân Tô Văn C sử dụng chất ma túy từ cuối năm 2019 đến nay và thường xuyên mua chất ma túy về sử dụng. Khoảng 10 giờ, ngày 14/02/2020 Tô Văn C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA DREAM, biển kiểm soát 12F5 - 8804 đi đến khu vực ngã tư đường P - B thuộc phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn thì gặp anh T (không biết lai lịch, địa chỉ) là đối tượng nghiện ma túy. Qua nói chuyện Tô Văn C nhờ T đi mua ma túy Heroine hộ để đem về sử dụng, anh T đồng ý, Tô Văn C đưa 200.000 đồng cho anh T đi mua, Tô Văn C đứng chờ khoảng 10 phút sau thì anh T quay lại đưa cho Tô Văn C 01 gói giấy màu trắng chữa chất ma túy Heroine. Tô Văn C cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái và điều khiển xe mô tô đi đến khu vực đối diện số nhà X1, đường B, phường V, thành phố L thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA DREAM, màu sơn nâu, Biển kiểm soát 12F5 - 8804 chủ sở hữu là ông Tô A K là bố của Tô Văn C, khi cho Tô Văn C mượn ông Tô A K không biết Tô Văn C dùng để làm phương tiện đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho chủ sở hữu.

Đối với tang vật, giấy tờ, đồ vật gồm: 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định; 01 giấy chứng minh nhân dân số 082018178 mang tên Tô Văn C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, đã được Cơ quan điều tra chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn để bảo quản theo quy định.

Tại cáo trạng số 71/CT-VKS ngày 13 tháng 4 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn để xét xử đối với bị cáo Tô Văn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại phần tranh luận đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn luận tội bị cáo Tô Văn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Tô Văn C từ 12 đến 15 tháng tù. Về hình phạt bổ sung, đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, do bị cáo không có tài sản riêng. Về vật chứng, áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 của Bộ luật Hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 giấy chứng minh nhân dân số 082018178 mang tên Tô Văn C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA và buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố.

Bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hô i đồng xét xử giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hồi 10 giờ 30 phút ngày 14/02/2020, tại khu vực trước cửa số nhà X1, đường B, phường V, thành phố L, Tô Văn C đang thực hiện hành vi tàng trữ 0,108 gam ma túy Heroine để sử dụng thì bị Công an thành phố L bắt giữ. Như vậy đã đủ cơ sở kết luận bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy vì đây là chất mà Nhà nước cấm mua, bán, tàng trữ, sử dụng và với khối lượng chất ma túy Heroine trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam thì người đang lưu giữ chất ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Nhận thấy cáo trạng của Viện Kiểm sát truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến an ninh trật tự xã hội và quyền quản lý tân dược của Nhà nước, gieo rắc những tệ nạn xấu trong xã hội. Do đó cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng: Không có.

[4] Xét về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà, tại Cơ quan điều tra bị cáo khai báo thành khẩn. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự và chưa bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật lần nào. Do đó, đây cũng là tình tiết xem xét khi áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung, qua xác minh bị cáo không có tài sản riêng. Do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Vật chứng gồm: 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định là chất ma túy nên cần tịch thu để tiêu hủy; 01 giấy chứng minh nhân dân số 082018178 mang tên Tô Văn C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo. Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA DREAM, màu sơn nâu, Biển kiểm soát 12F5 - 8804, chủ sở hữu là ông Tô A K là bố của Tô Văn C, ông Tô A K không biết Tô Văn C dùng để làm phương tiện đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe cho chủ sở hữu. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát luận tội bị cáo và đề nghị giải quyết T bộ nội dung vụ án là đúng pháp luật, phù hợp với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo.

[9] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đã được tống đạt các văn bản quyết định tố tụng và thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo đúng trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện đều có giá trị pháp lý.

[10] Đối với đối tượng tên T đã mua hộ chất ma túy cho Tô Văn C do không xác định được họ tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xử lý trong vụ án này.

[11] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 61; Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 61; Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố bị cáo Tô Văn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Tô Văn C 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 14/02/2020.

2. Về tang vật xử lý như sau:

- Tịch thu để tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định là chất ma túy;

- Trả lại cho bị cáo Tô Văn C 01 giấy chứng minh nhân dân số 082018178 do Công an tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 22/03/2004; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen số IMEI 354308049750747.

(Chi tiết các vật chứng trên được miêu tả theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/4/2020 giữa Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn).

3. Về án phí: Buộc bị cáo Tô Văn C phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2020/HS-ST ngày 14/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:72/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về