Bản án 72/2019/HNGĐ-ST ngày 12/11/2019 về ly hôn giữa chị H và anh H1

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 72/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ H VÀ ANH H1

Trong ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 187/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2019 về việc tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 99/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Võ Thị H, sinh năm 1981

Địa chỉ: Ấp K, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Út H1, sinh năm 1983

Địa chỉ: Ấp K, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và những ý kiến tại Tòa án chị Võ Thị H trình bày như sau:

Chị H và anh H1 kết hôn với nhau vào năm 2002 hôn nhân tự nguyện được gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán của địa phương, đến ngày 12/01/2004 anh chị đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Vợ chồng đã xảy ra nhiều mâu thuẫn từ hơn 10 năm nay, nguyên nhân do anh H1 tham gia cờ bạc, chơi bời bia ôm gái gú, thường có hành vi bạo hành vợ đến gây thương tích và nhiều lần cầm dao đòi giết vợ. Vợ chồng có trao đổi với nhau và thậm chí cha mẹ cũng khuyên can nhưng anh H1 không thay đổi. Đến năm 2017 do không chịu nổi sự đánh đập của chồng nên chị H đã sống ly thân. Nay nhận thấy anh H1 không thể thay đổi được bản tính và vợ chồng không thể tiếp tục chung sống cùng nhau nên chị H xin ly hôn với anh H1.

Về con chung: Chị H xác định vợ chồng có hai con chung là cháu Nguyễn Văn N, sinh ngày 28/02/2003 và cháu Nguyễn Văn N1, sinh ngày 25/5/2006. Cháu Nguyễn Văn N hiện sống với cha và cháu Nguyễn Văn N1 thì sống với mẹ.

Chị Hoa có nguyện vọng được nuôi cháu Nguyễn Văn N1, giao cháu Nguyễn Văn N1 cho anh H1 nuôi dưỡng, không ai cấp dưỡng nuôi con cho ai.

Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Chị H1 xác định không có không yêu cầu Tòa án giải quyết Tại phiên tòa hôm nay chị H1 tiếp tục xin ly hôn với anh H1, xin được quyền nuôi cháu Nguyễn Văn N1, giao cháu Nguyễn Văn N1 cho anh H1 nuôi. Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng chị H1 xác định không có yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình làm việc tại Tòa án và tại phiên tòa - bị đơn anh Nguyễn Văn Út H1 vắng mặt và không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu xin ly hôn của chị H1.

Chứng cứ nguyên đơn cung cấp: Giấy chứng nhận kết hôn; Bản sao khai sinh của cháu Nguyễn Văn N1 và Nguyễn Văn N1; giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu cuả nguyên đơn (Bản công chứng). Bị đơn không cung cấp chứng cứ.

Kết quả xác minh từ chính quyền địa phương cho biết: Vợ chồng chị H1 và anh H1 xảy ra nhiều mâu thuẫn do thường xảy ra cự cãi, đánh nhau và hiện anh chị đã ly thân với nhau. Sau khi vợ chồng ly thân cháu Nguyễn Văn N1 sống với mẹ và cháu Nguyễn Văn N sống với cha có cuộc sống phát triển bình thường. Hiện tại chị H và anh H1 đều đi làm thuê có thu nhập ổn định và có đủ khả năng để nuôi con chung. Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng (Nguyên đơn) đảm bảo đúng theo quy định, đề nghị áp dụng Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị H được ly hôn với anh H1; đề nghị áp dụng Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao con chung tên Nguyễn Văn N1 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Văn N cho anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng, cấp dưỡng nuôi con chung các đương sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết; về tài sản chung và nợ chung không có yêu cầu nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn, bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

Tại phiên tòa anh H1 đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử thống nhất xét xử vắng mặt anh H1.

[2] Về nội dung vụ án:

Quan hệ pháp luật: Chị H xin ly hôn và yêu cầu giải quyết vấn đề con chung nên quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Chị H và anh H1 chung sống với nhau có thực hiện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang theo quy định của pháp luật, do đó hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị H, Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình giải quyết vụ án mặc dù được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh H1 vắng mặt đồng thời không gửi văn bản nêu ý kiến trước yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị H. Qua lời trình bày của chị H và kết quả xác minh từ địa phương được biết đời sống vợ chồng giữa chị H và anh H1 đã xảy ra mâu thuẫn, anh H1 thường xuyên uống rượu có hành vi bạo lực gia đình nhiều lần hành hung, đánh đập chị H đến gây thương tích và vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 đến nay. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã mở phiên hòa giải để hòa giải đoàn tụ nhưng anh H1 không chấp hành theo giấy mời, không thể hiện thiện chí hàn gắn hôn nhân. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị H đều xin được ly hôn. Từ đó có cơ sở để nhận định mâu thuẫn vợ chồng đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu của chị H, cho chị Hđược ly hôn với anh H1.

Về con chung: Anh chị có hai con chung là Nguyễn Văn N, sinh ngày 28/02/2003 và cháu Nguyễn Văn N1, sinh ngày 25/5/2006. Cháu Nguyễn Văn N1n có nguyện vọng được sống với cha và cháu Nguyễn Văn N1 có nguyện vọng được sống với mẹ khi cha mẹ ly hôn. Xét thấy: Sau khi ly thân con chung ở với chị H và anh H1 quá trình nuôi dưỡng con anh chị đảm bảo cho con có cuộc sống ổn định và phát triển bình thường, hiện nay anh chị đều đi làm thuê có thu nhập có khả năng để nuôi dạy con và sau khi ly hôn mỗi người nuôi một người con chung sẽ chia sẻ được gánh nặng về kinh tế trong việc nuôi dạy con. Do đó, qua thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử thống nhất tiếp tục giao cháu Nguyễn Văn N1 cho chị H nuôi dưỡng và giao cháu Nguyễn Văn N cho anh H1 nuôi dưỡng sau khi vợ chồng ly hôn.

Về cấp dưỡng nuôi con, anh chị không có yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Các đương sự không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Căn cứ Điều 144 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc chị H là nguyên đơn chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

[4] Về ý kiến phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và đề nghị hướng giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát huyện An Biên tại phiên tòa là có cơ sở và căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử đã xem xét và ghi nhận trong quá trình giải quyết vụ án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia và đình năm 2014;

- Áp dụng vào khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Võ Thị H và anh Nguyễn Văn Út H1.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Văn N1, sinh ngày 25/5/2006 cho chị Võ Thị H1 nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Văn N1, sinh ngày 28/02/2003 cho anh Nguyễn Văn Út H1 nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Các đương sự không có yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền đến thăm nom và chăm sóc con chung mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Khi cần thiết anh chị có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Các đương sự không có yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Võ Thi H có nghĩa vụ nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0001866 ngày 30/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, tỉnh Kiên Giang. Chị Võ Thị H đã nộp đủ án phí.

5. Báo quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 12/11/2019). Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

"Tờng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự".

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2019/HNGĐ-ST ngày 12/11/2019 về ly hôn giữa chị H và anh H1

Số hiệu:72/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về