Bản án 72/2017/HSST ngày 15/09/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 72/2017/HSST NGÀY 15/09/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 15 tháng 9 năm 2017 tại Hội trường tòa án nhân dân thành phố B tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 68/2017/HSST ngày 11 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: K’V; tên gọi khác: K’C; sinh ngày 01 tháng 01 năm 1998 tại Lâm Đồng; nơi cư trú: Thôn X, xã Y, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Cơ Ho; con ông K’Đ và bà Ka B; tiền sự, tiền án: Không; bị cáo tại ngoại. (có mặt);

-  Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lương Minh Tr - Trợ giúp viên trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lâm Đồng. (có mặt);

- Người bị hại: Anh Lê Huy M, ( chết).

- Người đại diện hợp pháp cho người bị hại: Chị Lê Thị Thu H, sinh năm 1989; nơi cư trú: Thôn T, Xã L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: K’V không có giấy phép lái xe hạng A1, khoảng 16 giờ 00 phút ngày 06/11/2016 K’V điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 49V8 – 1744 lưu thông theo hướng từ đường Quốc lộ 20 đi xã T, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Khi đi đến đường A, thôn Đ, xã L, Tp. B, K’V điều khiển xe với tốc độ nhanh lấn sang làn đường bên trái theo hướng lưu thông gây tai nạn đối với xe mô tô biển kiểm soát 49M6 – 2672 do anh Lê Huy M điều khiển theo hướng ngược lại. Hậu quả của vụ tai nạn giao thông làm anh Lê Huy M chết trên đường đi cấp cứu, còn K’V bị   gãy xương đùi phải, gãy xương cánh tay phải.

Theo kết luận giám định pháp y về tử thi số 356/2016/KLPY, ngày 06/12/2016 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Lâm Đồng kết luận: anh Lê Huy M chết do nguyên nhân: Đa chấn thương do tai nạn giao thông.

Kết luận giám định số 676 ngày 11/01/2017 của Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận:  Việc xác định điểm đụng của xe mô tô biển số 49V8-1744 và xe mô tô biển số 49M6-2672 vào thời điểm xảy ra vụ tai nạn giao thông là không đủ căn cứ khi va chạm hai xe đều trong trạng thái lưu thông động, vì thế chỉ xác định được vùng va chạm đầu tiên tại khu vực để lại các mảnh nhựa vỡ trên mặt đường. Không đủ cơ sở

để xác định tốc độ của xe mô tô biển số 49V8-1744 và xe mô tô biển số 49M6-2672 vào thời điểm xảy ra vụ tai nạn giao thông. Như vậy, vị trí va chạm đầu tiên giữa xe mô tô 49V8-1744 và xe mô tô biển số 49M6-2672 tại thời điểm xảy ra vụ tai nạn là điểm đầu vị trí số 02 thuộc phần đường bên trái hướng lưu thông của K’V. Kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện, xác định nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn giao thông là do K’V điều khiển xe mô tô đi không đúng phần đường quy định gây tai nạn giao thông.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã nêu; đại diện cho người bị hại yêu cầu xử nghiêm đối với hành vi của bị cáo với lý do kể từ khi gây tai nạn làm cho anh M chết, bị cáo và gia đình bị cáo không tới thăm viếng hoặc bồi thường khoản tiền nào cho gia đình bị hại, đại diện hợp pháp cho người bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) chi phí mai táng. Về vật chứng: Bị cáo yêu cầu trả lại 01 xe mô tô biển số 49V8-1744 và 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Nguyễn Thị Hồng H, đại diện cho người bị hại yêu cầu trả lại 01 xe mô tô biển số 49M6-2672 và 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Đỗ Văn Q.

Bản Cáo trạng số 69/CT-VKS ngày 10 tháng 8 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo K’V về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm a Khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: K’V không có giấy phép lái xe điều khiển xe mô tô lưu thông đi không đúng phần đường, lấn trái đường gây tai nạn làm chết 01 người, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng  điểm a Khoản 2 Điều 202; điểm p Khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo K’V từ 36 (ba mươi sáu) đến 42 (bốn mươi hai) tháng tù; buộc bị cáo bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng); trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô biển số 49V8-1744 và 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Nguyễn Thị Hồng H; giao cho cơ quan công an thành phố B xử lý đối với 01 xe mô tô biển số 49M6-2672 và 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Đỗ Văn Q. Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhưng đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ: Phạm tội do lạc hậu quy định tại điểm k khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự để chuyển khung hình phạt quy định tại Điều 47 đối với bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo theo Điều 60 Bộ luật hình sự. Ý kiến của đại diện cho người bị hại: Nhất trí với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị xét xử bị cáo đúng pháp luật. Về phần bồi thường dân sự đại diện hợp pháp cho người bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng).

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình và có điều kiện bồi thường cho gia đình người bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật; người bào chữa, bị cáo và người đại diện hợp pháp cho người bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. K’V không có giấy phép lái xe điều khiển xe mô tô biển số 49V8-1744 có dung tích xi lanh trên 50cm3  lưu thông trên đường, đi không đúng phần đường quy định gây tai nạn làm cho anh Lê Huy M chết, như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo K’ V phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ và sự hoạt động bình thường của các phương tiện tham gia giao thông đường, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Khi thực hiện hành vi  phạm tội bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do vậy cần có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

Tuy nhiên xét về nhân thân của bị cáo là người có nhân thân tốt không có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo là người dân tộc ít người, trình độ nhận thức pháp luật hạn chế, gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo theo quy định của Chính phủ là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm p Khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm k khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự để chuyển khung hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo theo Điều 60 Bộ luật hình sự l không có cơ sở chấp nhận.

Xét thấy: Đây là vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo, do vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tính răn đe, giáo dục.

Về vật chứng: Đối với 01 xe mô tô biển số 49V8-1744, số máy 610091, số khung 610091, xe không có cụm đèn chiếu sáng, đèn xi nhan, không có đồng hồ công tơ mét, không có yếm xe và giàn nhựa ốp ngoài xe, phuộc trước bị gãy rời, bánh trước bị gãy, đây là xe của bị cáo mua có giấy tờ hợp pháp nhưng chưa sang tên cần trả lại cho bị cáo. 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Nguyễn Thị Hồng H Tòa án đã trả lại cho bị cáo nên không xem xét. 01 xe mô tô biển số 49M6-2672, số máy033060, số khung 033060, nhãn hiệu VMEP, màu sơn nâu; đèn chiếu sáng, đèn xi nhan, đồng hồ công tơ mét bị vỡ; phuộc trước gãy rời và 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Đỗ Văn Q do anh Lê Huy M điều khiển chưa xác định được chủ sở hữu cần giao cho cơ quan công an xử lý theo thẩm quyền.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp cho người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường tiền mai táng phí cho anh M là 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng), xét đây là yêu cầu chính đáng phù hợp với quy định của pháp luật cần chấp nhận buộc bị cáo phải bồi thường số tiền nêu trên cho gia đình người bị hại.

Về án phí: Bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo K’V phạm tội “ Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm a Khoản 2 Điều 202; Điểm p Khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo K’V 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Về dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015

Buộc bị cáo phải bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền50.000.000đ (năm mươi triệu đồng).

Về xử lý vật chứng: Trả cho bị cáo K’V 01 xe mô tô biển số 49V8-1744, số máy 610091, số khung 610091, xe không có cụm đèn chiếu sáng, đèn xi nhan, không có đồng hồ công tơ mét, không có yếm xe và giàn nhựa ốp ngoài xe, phuộc trước bị gãy rời, bánh trước bị gãy. Giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật đối với 01 xe mô tô biển số 49M6-2672, số máy 033060, số khung 033060, nhãn hiệu VMEP, màu sơn nâu; đèn chiếu sáng, đèn xi nhan, đồng hồ công tơ mét bị vỡ; phuộc trước gãy rời và 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Đỗ Văn Q. (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/8/2017 giữa cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố B và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

Về án phí:

Căn cứ Khoản 2 Điều 99 BLTTHS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo K’V được miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phíDSST.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu Thi hành án, bên phải thi hành án còn phải trả số tiền lãi, tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo để Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

409
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2017/HSST ngày 15/09/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:72/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về