Bản án 716/2019/HS-PT ngày 22/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 716/2019/HS-PT NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 514/2019/TLPT-HS ngày 13 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo Đặng Trần T, do có kháng cáo của bị cáo Đặng Trần T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 287/2019/HS-ST ngày 05/08/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Đng Trần T, sinh ngày 23/4/1972 tại thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: đường H, phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: đường L, phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: lái xe; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng C (chết) và bà Nguyễn Thị Ch; Có vợ (đã ly hôn) và 03 con, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại, (có mặt).

- Bị hại: Ông Nguyen Tuan Thên A, sinh năm: 1978; Quốc tịch: Hà Lan. Thường trú: Chung cư G, đường Ng, phường T1, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, (người bị hại không kháng cáo, Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 16 giờ 30 phút, ngày 19/10/2018, anh Nguyen Tuan Thên A (Quốc tịch: Hà Lan) đến cổng Trường mẫu giáo Quốc tế C tại đường số 23, khu phố 6, phường T2, Quận 7, đón con và cháu. Khi anh A dẫn con và cháu đi trên vạch kẻ đường dành cho người đi bộ đến gần vạch sơn giữa tim đường để sang bên kia đường thì anh A nhìn thấy xe ô tô du lịch biển số 51G-009.29 do Đặng Trần T điều khiển lưu thông trên đường số 23, hướng từ đường Ng1 về đường T2, Quận 7 với khoảng cách rất gần nên anh A đưa chiếc dù màu đỏ đang cầm trên tay về phía xe ô tô ra hiệu nhường đường buộc T phải dừng xe ngay sát vạch kẻ đường dành cho người đi bộ. Ngay sau khi anh A dắt con và cháu đi qua đầu xe ô tô, T điều khiển xe ô tô lách sang bên phải để đi tiếp thì anh A dùng chân phải đá vào cánh cửa bên phải xe ô tô. Vì vậy, T dừng xe mở cửa và cãi nhau với anh A. Sau đó, T cầm cây kéo dài khoảng 17cm, cán bằng nhựa màu đỏ, dài khoảng 10cm, lưỡi kéo bằng kim loại, dài khoảng 07cm, mũi nhọn xuống xe xông vào xô xát với anh A và buộc anh A phải đến xem tình trạng cửa xe, nhưng anh A không thực hiện. Mặc dù được người đi đường can ngăn, anh A đã bỏ đi nhưng T vẫn xông vào giật chiếc dù màu đỏ trên tay anh A, khiến anh A bỏ chạy. Vì xe ô tô của T dừng giữa đường gây cản trở giao thông, nên T lên xe điều khiển xe đỗ vào lề phải ở gần đó, rồi tiếp tục cầm cây kéo bằng kim loại đi về phía anh A đang đứng trên vỉa hè cùng với con và cháu, yêu cầu anh A quay lại kiểm tra cánh cửa xe để bồi thường. Do anh A không thực hiện, T cầm kéo bằng tay phải xông vào đâm về phía trước, tấn công anh A, anh A bỏ chạy vòng quanh chiếc xe tải đang dừng cạnh đường, rồi nhặt khúc cây để chống đỡ, nhưng bị T đứng đối diện, cầm kéo đâm 01 nhát từ trên xuống trúng cánh tay phải. Lúc này, anh A bỏ chạy vào trường học, còn T điều khiển xe ô tô bỏ đi.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 25/TgT.19 ngày 18/01/2019 của Trung tâm Pháp y Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh xác định Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với anh Nguyen Tuan Thên A là 16%.

Anh Nguyen Tuan Thên A có yêu cầu bồi thường140.000.000 đồng chi phí điều trị, Đặng Trần T đã bồi thường cho anh A 50.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 287/2019/HS-ST ngày 05/8/2019, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s, b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Đặng Trần T 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

Căn cứ khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Buộc bị cáo Đặng Trần T bồi thường cho bị hại Nguyen Tuan Thên A số tiền 90.000.000 đồng (Chín mươi triệu đồng).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 08/8/2019, bị cáo Đặng Trần T có đơn kháng cáo đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đặng Trần T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã đóng xong tiền khắc phục hậu quả cho bị hại và xuất trình biên lai. Đây là tình tiết mới cũng là căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do bị cáo có thân bị cáo tốt, nhiều tình tiết giảm nhẹ và bị hại cũng có một phần lỗi.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bị cáo Đặng Trần T kháng cáo trong hạn luật định nên vụ án được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đặng Trần T khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của bị hại, cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 25/TgT.19 ngày 18/01/2019 của Trung tâm Pháp y Sở y tế thành phố Hồ Chí Minh xác định tỉ lệ tổn thương cơ thể của anh A do thương tích gây ra là 16%.

Tòa án cấp sơ thẩm xác định Đặng Trần T phạm tội “Cố ý gây thương tích”theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo:

Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bồi thường khắc phục một phần hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, nhân thân tốt và áp dụng các điểm s, điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo 02 năm tù là phù hợp.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình biên lai nộp thêm 90.000.000 đồng. Như vậy, bị cáo đã khắc phục xong hậu quả cho bị hại. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới, mặt khác quá trình phạm tội bị hại cũng có một phần lỗi, bị cáo hoàn cảnh khó khăn, hiện vợ chồng đã ly hôn, bị cáo đang nuôi con nhỏ và là lao động chính. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy, bị cáo hội đủ các điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự và Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, nên có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo về việc xin hưởng án treo.

[4] Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 355, Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s, b khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Trần T; sửa bản án sơ thẩm:

Xử phạt Bị cáo Đặng Trần T 02 (Hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách là 04năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Đặng Trần T cho Ủy ban nhân dân phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

(Đã giải thích chế định án treo).

Ghi nhận bị cáo Đặng Trần T nộp 90.000.000 đồng (chín mươi triệu đồng) theo biên lai thu số AA/2019/0024679 ngày 10/10/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh để thi hành phần trách nhiệm bồi thường của bản án sơ thẩm.

Về án phí: Bị cáo Đặng Trần T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 716/2019/HS-PT ngày 22/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:716/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về