Bản án 716/2018/HNGĐ-PT ngày 01/08/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 716/2018/HNGĐ-PT NGÀY 01/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 01 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 157/2017/TLPT-HNGĐ ngày14 tháng 12 năm 2017 về tranh chấp ly hôn.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 2406/2017/HNGĐ-ST ngày 23 tháng 10 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3107/2018/QĐ-PT ngày 16 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Vũ Việt Đ; cư trú tại: Đường M, Phường N, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt).

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Trúc Q; cư trú tại: Đường Q, Phường R, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Trần Thị Ngọc N

- Luật sư, Văn phòng Luật sư X, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, địa chỉ: Số 12H, Đường T, Phường U, Quận V, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

3. Người kháng cáo: Bị đơn – bà Nguyễn Trúc Q.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn ly hôn đề ngày 20/10/2016 và lời khai của nguyên đơn – ông Vũ Việt Đ thì:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Nguyễn Trúc Q đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 11, quyển số 01/1997 ngày 01/02/1997. Thời gian đầu, Ông và bà Q chung sống hạnh phúc đến năm 2016 phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong công việc làm ăn, giáo dục con và chăm sóc, đối xử với bố mẹ chồng. Bà Q đã kiểm soát tự do cá nhân của Ông, nhiều lần có lời lẽ xúc phạm Ông trước mặt đồng nghiệp và hai con. Ông và bà Q đã ly thân từ tháng 6/2016 đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bà Q.

Về con chung: Ông và bà Q có 02 con chung là: T, sinh ngày 17/10/1997 (đã thành niên), giới tính: Nữ và N, sinh ngày 06/12/1999 (đã thành niên), giới tính: Nữ. Hiện nay, các con chung đang do bà Q trực tiếp nuôi.

Về tài sản chung: Ông và bà Q tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông và bà Q không có nợ chung.

Theo lời khai của bị đơn – bà Nguyễn Trúc Q thì: Bà thống nhất với trình bày của ông Đ về việc kết hôn; con chung; tài sản chung và nợ chung. Bà nhận thấy mâu thuẫn giữa Bà và ông Đ không đến mức nghiêm trọng, Bà vẫn còn yêu chồng, thương con nên Bà không đồng ý ly hôn với ông Đ. Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung.

Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 2406/2017/HNGĐ-ST ngày 23 tháng 10 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh quyết định: “1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của ông Vũ Việt Đ.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Vũ Việt Đ được ly hôn với bà Nguyễn TrúcQ.

- Về con chung: Có hai con chung tên T, sinh ngày 17/10/1997 (đã trưởng thành) và N, sinh ngày 06/12/1999.

Giao cho bà Nguyễn Trúc Q trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung tên N, sinh ngày 06/12/1999 (theo Giấy khai sinh số 224/1999 quyển số III/P2, đăng ký ngày 22/12/1999 tại Ủy ban nhân dân Phường I, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh). Ông bà tự thỏa thuận về việc cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa án không xét.

Ông Vũ Việt Đ có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con, khi có lý do chính đáng, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Ông bà xác định tự thỏa thuận giải quyết với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa án không xét.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông Vũ Việt Đ phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0008833 ngày 01/11/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh, ông Vũ Việt Đ đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.”

Ngoài ra, Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm còn quyết định quyền yêu cầu thi hành án và kháng cáo của các đương sự.

Ngày 03/11/2017, bị đơn – bà Nguyễn Trúc Q kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo: Nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm mang tính chất chủ quan, Bà và ông Đ đã chung sống tâm đầu ý hợp trong thời gian dài; Bà vẫn còn thương chồng, thương con, nên không đồng ý ly hôn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn – bà Trần Thị Ngọc N trình bày: Ông Đ và bà Q có thời gian chung sống hạnh phúc trong 20 năm. Ông bà cùng nuôi dưỡng, chăm sóc các con rất tốt. Hai con đã trưởng thành, con lớn đang du học ở nước ngoài, con nhỏ vừa bước qua tuổi 18. Việc bố mẹ ly hôn đã có ảnh hưởng đến tâm lý của các con, con lớn có biểu hiện học tập giảm sút và chuyển biến tâm lý không tích cực. Do mâu thuẫn vợ chồng không đến mức trầm trọng, còn khả năng hàn gắn nên đề nghị Tòa án sửa án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Đ, để vợ chồng đoàn tụ cùng tiếp tục nuôi dưỡng các con phát triển tốt.

Bị đơn – bà Nguyễn Trúc Q trình bày: Bà không đồng ý ly hôn với ông Đ, vì Bà nhận thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng không trầm trọng, Bà đề nghị Tòa án cho thêm thời gian để vợ chồng Bà tiếp tục khắc khục những mâu thuẫn còn tồn tại và tiếp tục cùng nuôi dưỡng, chăm sóc các con.

Nguyên đơn – ông Vũ Việt Đ trình bày: Tình trạng vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, không có khả năng đoàn tụ, nên đề nghị Tòa án giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Kiểm sát viên phát biểu:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về thời hạn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Trúc Q còn trong thời hạn pháp luật quy định.

Về nội dung: Hôn nhân của ông Đ và bà Q là hợp pháp. Giữa ông Đ và bà Q có những bất hòa trong cuộc sống, không thể thống nhất được. Ông Đ và bà Q đã ly thân hơn một năm, không còn quan tâm, chăm sóc nhau, bà Q cũng không đưa ra được giải pháp hòa giải. Do đó, nhận thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng, không có khả năng đoàn tụ nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về nội dung: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 11, quyển số 01/97 ngày 01/02/1997 do Ủy ban nhân dân Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp thì quan hệ hôn nhân giữa ông Vũ Việt Đ và bà Nguyễn Trúc Q là hợp pháp. Trong thời kỳ hôn nhân, giữa ông Đ và bà Q có phát sinh mâu thuẫn, nhưng chủ yếu là mâu thuẫn trong hoạt động kinh doanh của vợ chồng. Tính chất mâu thuẫn chưa đến mức trầm trọng, không thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định tại Khoản 1, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Ông Đ và bà Q sống chung với nhau trong một thời gian dài, cùng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục các con phát triển tốt. Theo kết quả xác minh về tình trạng hôn nhân tại nơi cư trú của ông Đ và bà Q, thì giữa ông Đ và bà Q không xảy ra mâu thuẫn đến mức địa phương phải hòa giải. Do đó, cần tạo điều kiện cho hai bên có thêm thời gian để giải quyết mâu thuẫn, khắc phục tình trạng hôn nhân, cùng nhau nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con phát triển lành mạnh, xây dựng gia đình hạnh phúc.

Do đó, chấp nhận kháng cáo của bà Q, sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Đ.

 [2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ vào Khoản 1, Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Khoản 2, Điều 29 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm nên người kháng cáo – bà Nguyễn Trúc Q không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Khoản 1, Điều 148 và Khoản 2, Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 19, Khoản 1, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Điều 39 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Khoản 2, Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Sửa Bản án sơ thẩm:

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Vũ Việt Đ yêu cầu ly hôn bà Nguyễn Trúc Q.

1.2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Vũ Việt Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008833 ngày 01/11/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Vũ Việt Đ đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Trúc Q không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại cho bà Nguyễn Trúc Q số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp là 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0003365 ngày 20/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tạiĐiều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

336
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 716/2018/HNGĐ-PT ngày 01/08/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:716/2018/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về