Bản án 71/2020/HS-ST ngày 23/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 71/2020/HS-ST NGÀY 23/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 71/2020/HS-ST ngày 26 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68 /2020/QĐXXST - HS ngày 9 tháng 11năm 2020 đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: Lê Minh H, Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không có. Sinh ngày: 04/8/1999; Tại: Tỉnh Q; Nơi ĐKHKTT: Thôn A, X.B, Huyện Th, Tỉnh.Q;Chỗ ở: Số 48, P hường H, Quận L, TP.Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Tiền án, tiền sự: Không; Con ông Lê Th và bà Trần Thị LGia đình có 2 chị em, bị cáo là con thứ ba; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 10/7/2020 hiện có mặt tại phiên tòa.

2/ Họ và tên: Trần L, Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày: 18/7/1999; Tại: Tỉnh Q; Nơi ĐKHKTT: Thôn 7, Xã B Tú, Huyện T, T ỉnh Q; Chỗ ở: Số 48 đường Đ, Quận L, TP. Đ ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn:12/12; Tiền án, tiền sự: Không. Con ông Trần H và bà Võ Thị B; Gia đình có 3 chị em, bị cáo là con thứ hai; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 10/7/2020 hiện có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan: Bà Trần Thị C– Sinh năm 1971. Địa chỉ: Tổ 27, phường Ch, quận Th,thành phố Đ.Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 10/7/2020, Lê Minh H được 01 nam thanh niên (không rõ lai lịch) sử dụng số điện thoại 0909.195.101 gọi vào số điện thoại 0364.267.218 của H hỏi mua 08 viên thuốc lắc, 01 gói ma túy ketamin. H đồng ý bán với giá 7.000.000 đồng. Hai bên hẹn đến quán Karaoke Anh Ca thuộc P.Mỹ An, Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng để giao dịch. Sau đó, H điều khiển xe mô tô loại Exciter, màu trắng, BKS: 92H1-648.40 đến quán Karaoke Xuân Tùng (thuộc P.Hòa Minh, Q.Liên Chiểu, TP.Đà Nẵng) gặp 01 thanh niên tên B (không rõ lai lịch) mua 08 viên thuốc lắc và 01 gói Ketamin (để trong 01 vỏ bao thuốc lá màu trắng) với giá 6.200.000 đồng rồi về phòng trọ rủ Trần L đến điểm hẹn để bán ma tuý thì L đồng ý. H đưa số ma tuý cho L cất giữ để bán cho khách, rồi H điều khiển xe mô tô trên chở L ngồi sau đến trước nhà số 03, đường Châu Thị Vĩnh Tế (cạnh Karaoke Em Ca và đối diện Karaoke Anh Ca). H nói L đặt ma túy xuống gốc cây trước số nhà 03, đường Châu Thị Vĩnh Tế để khách lấy. Đồng thời, H liên lạc với nam thanh niên mua ma tuý thông báo đã tới điểm hẹn. Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, trong khi H đang giao ma tuý với nam thanh niên thì bị Đội CSĐT tội phạm về Ma túy - Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ tang vật.

Sau đó vào lúc 22 giờ 45 phút cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Minh H, tại phòng trọ số 04, dãy trọ số 48, đường Đỗ Nhuận thuộc tổ 97, P.Hòa Minh, Q.Liên Chiểu, TP.Đà Nẵng nhưng không thu giữ được gì của H. Tuy nhiên, kiểm tra khu vực xung quanh, Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng thu giữ: 01 gói ni lông chứa tinh thể rắn, màu trắng, được niêm phong ký hiệu là L2 (vị trí dưới nền đất ngay sau cửa hông góc bên trái, phía sau phòng trọ số 04).

Theo Kết luận giám định số 223/GĐ-MT ngày 17/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP.Đà Nẵng, kết luận (BL:19):

" – Chia mẫu ký hiệu L1 thành mẫu ký hiệu L1a (08 viên nén màu hồng) và mẫu ký hiệu L1b (tinh thể rắn màu trắng trong 01 gói nilong). Các viên nén trong mẫu ký hiệu L1a gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng mẫu L1a: 2,776 gam.

- Tinh thể rắn, màu trắng trong mẫu ký hiệu L1b, L2 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng mẫu L1b: 1,716 gam, khối lượng mẫu L2: 0,384 gam" trên.

Quá trình điều tra, Lê Minh H và Trần L đều khai nhận hành vi phạm tội như Riêng đối với gói ni lông chứa 0,384 gam ma tuý loại Ketamine, niêm phong ký hiệu L2, được thu giữ tại vị trí dưới nền đất ngay sau cửa hông góc bên trái, phía sau phòng trọ số 04, đường Đỗ Nhuận thuộc tổ 97, P.Hòa Minh, Q.Liên Chiểu, TP.Đà Nẵng, Lê Minh H và Trần L khai nhận không phải của H, L và không rõ nguồn gốc số ma tuý này.

Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số 73/CT- VKS ngày 23/10/2020, của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Lê Minh H và Trần L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại Khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự .

*Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng thực hành quyền công tố nhà nước vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố Lê Minh H và Trần L về tội danh như đã nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Lê Minh H và Trần L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Căn cứ Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51,58 ; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Lê Minh H từ 2 (hai) năm 6 (sáu) tháng đến 3(ba) năm tù giam.

Căn cứ Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần L từ 2 ( hai) năm đến 2 (hai) năm 6 tháng tù giam.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy:

+ 2,128 gam chất ma tuý loại MDMA (mẫu L1a); 1,556 gam chất ma tuý loại Ketamine (mẫu L1b) hiện được niêm phong trong bì thư trắng, ký hiệu là A1, là mẫu giám định hoàn trả kèm theo Kết luận giám định số 223/GĐ-MT ngày 17/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP.Đà Nẵng.

+ 01 sim số 0364.627.218 gắn trong ĐTDĐ hiệu Iphone màu vàng nhạt của Lê Minh H.

- Đề nghị tịch thu sung công quỹ: 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter, màu trắng, gắn BKS: 92H1-648.40 (SK: 4614EZ324484; SM: JF46E7024503); 01 Giấy đăng ký xe mô tô số 055115 mang tên Lê Minh H và 01 ĐTDĐ hiệu Iphone màu vàng nhạt của Lê Minh H.

- Đề nghị trả lại cho Trần L: 01 ĐTDĐ hiệu Iphone màu vàng nhạt gắn 01 sim số 0354.202.502 và 01 CMND số 206.209.725 mang tên Trần L.

- Đối với việc Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng phát hiện 01 gói ni lông chứa 0,384 gam chất ma tuý loại Ketamine thu giữ tại vị trí dưới nền đất ngay sau cửa hông góc bên trái, phía sau phòng trọ số 04, dãy trọ số 48, đường Đỗ Nhuận thuộc tổ 97, P.Hòa Minh, Q.Liên Chiểu, TP.Đà Nẵng, hiện chưa xác định được nguồn gốc số ma túy trên nên Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng đã chuyển hồ sơ vụ việc và tang vật có liên quan đến Cơ quan CSĐT Công an Q.Liên Chiểu, TP.Đà Nẵng để thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền là có cơ sở.

- Đối với bà Trần Thị Cúc là chủ nhà trọ nơi Lê Minh H và Trần L cư trú, không biết việc L và H có hành vi mua bán trái phép chất ma túy và nguồn gốc 01 gói ni lông chứa 0,384 gam chất ma tuý loại Ketamine nên Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn,TP.Đà Nẵng không xử lý là có căn cứ .

- Đối với đối tượng tên Bi (là người bán ma tuý cho Lê Minh H) và nam thanh niên mua ma tuý của H hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn,TP.Đà Nẵng tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau là có căn cứ).

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với phần luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Các bị cáo H và L đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, các bị cáo Lê Minh H và Trần L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, xét lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu điều tra thu thập đầy đủ có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định như sau: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 10/7/2020, tại khu vực trước số nhà 03 đường Châu Thị Vĩnh Tế thuộc tổ 08, P.Mỹ An, Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng, trong lúc Lê Minh H và Trần L đang có hành vi bán trái phép 2,776 gam ma túy loại MDMA và 1,716 gam ma túy loại Ketamine cho 01 thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 7.000.000 đồng thì bị Đội CSĐT tội phạm về Ma túy - Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng bắt quả tang.

Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng truy tố bị cáo Lê Minh H và Trần L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại Khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội thì thấy: Khi bị cáo H nhận được thông tin từ người lạ hỏi mua ma túy và sau đó H đã tự mình đi mua ma túy của Bi (không rõ lai lịch) với giá 6.200.000 đồng rồi về phòng trọ rủ Trần L đến điểm hẹn để bán ma tuý thì L đồng ý và khi các bị cáo đang giao ma túy thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi này của các bị cáo là lỗi cố ý đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được qui định tại khoản 1 Điều 251 BLHS.

Về tính chất vụ án thấy: Ma túy là một loại độc được gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý nên đã nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, chiếm đoạt sử dụng trái phép các chất ma túy, nếu ai vi phạm một trong các quy định trên, gây hậu quả nghiêm trọng đều bị pháp luật trừng trị và xử lý. Các bị cáo đã nhận thức được điều đó, song để có tiền phục vụ cho nhu cầu bản thân, các bị cáo vẫn bất chấp pháp luật cố ý thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nói trên. Hành vi các bị cáo gây ra là nguy hiểm, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đồng thời còn xâm phạm nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc.

[5] Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án thì thấy, bị cáo H là người trực tiếp đi mua ma túy vế, sau đó rủ bị cáo L và được bị cáo L đồng ý cùng thực hiện hành vi bán ma túy nêu trên do vậy, mức án với bị cáo H phải cao hơn bị cáo L là phù hợp. Các bị cáo khi thực hiện hành vi không có sự phân công vai trò nhiệm vụ từ trước nên thuộc đồng phạm giản đơn.

[6] Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn rõ ràng, Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự Bị cáo H gì đình thuộc diện khó khăn được địa phương xác nhận:

bị cáo L có ông ngoại được tặng huân chương chiến công nên áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 BLHS cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ này.

[7] Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự là phù hợp.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với 2,128 gam chất ma tuý loại MDMA (mẫu L1a); 1,556 gam chất ma tuý loại Ketamine (mẫu L1b) hiện được niêm phong trong bì thư trắng, ký hiệu là A1, là mẫu giám định hoàn trả kèm theo Kết luận giám định số 223/GĐ-MT ngày 17/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP.Đà Nẵng và 01 sim số 0364.627.218(gắn trong ĐTDĐ hiệu Iphone màu vàng nhạt) của Lê Minh H là công cụ H sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter, màu trắng, gắn BKS: 92H1- 648.40(SK:4614EZ324484;SM: JF46E7024503); 01Giấy đăng ký xe mô tô số 055115 mang tên Lê Minh H và 01 ĐTDĐ hiệu Iphone màu vàng nhạt của Lê Minh H là công cụ, phương tiện H sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào công quỹ nhà nước.

- 01 ĐTDĐ hiệu Iphone màu vàng nhạt gắn 01 sim số 0354.202.502 và 01 CMND số 206.209.725 mang tên Trần L do không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho Trần L. Tất cả các vật chứng nêu trên hiện đang được tạm giữ tại cơ quan Thi hành án quận Ngũ Hành Sơn, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/10/2020 [9] Đối 01 gói ni lông chứa 0,384 gam chất ma tuý loại Ketamine thu giữ tại vị trí dưới nền đất ngay sau cửa hông góc bên trái, phía sau phòng trọ số 04, dãy trọ số 48, đường Đỗ Nhuận thuộc tổ 97, P.Hòa Minh, Q.Liên Chiểu, TP.Đà Nẵng, hiện chưa xác định được nguồn gốc số ma túy trên nên Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng đã chuyển hồ sơ vụ việc và tang vật có liên quan đến Cơ quan CSĐT Công an Q.Liên Chiểu, TP.Đà Nẵng để thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền là có cơ sở.

[10] Đối với bà Trần Thị C là chủ nhà trọ nơi Lê Minh H và Trần L cư trú, không biết việc L và H có hành vi mua bán trái phép chất ma túy và nguồn gốc 01 gói ni lông chứa 0,384 gam chất ma tuý loại Ketamine nên Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn,TP.Đà Nẵng không xử lý là có căn cứ .

[11] Đối với đối tượng tên B (là người bán ma tuý cho Lê Minh H) và nam thanh niên mua ma tuý của H hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn,TP.Đà Nẵng tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau là có căn cứ.

[12] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Xét các đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Minh H và Trần L phạm tội “Mua bán trái phép chất matúy”.

1/ Căn cứ: Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, 58 Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Minh H 2 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 10/7/2020.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1,2 Điều 51, 58 Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần L 2 (hai) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 10/7/2020.

2/ Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

a/ Tịch thu tiêu hủy gồm: 2,128 gam chất ma tuý loại MDMA (mẫu L1a); 1,556 gam chất ma tuý loại Ketamine (mẫu L1b) hiện được niêm phong trong bì thư trắng, ký hiệu là A1, là mẫu giám định hoàn trả kèm theo Kết luận giám định số 223/GĐ- MT ngày 17/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP.Đà Nẵng và 01 sim số 0364.627.218(gắn trong ĐTDĐ hiệu Iphone màu vàng nhạt) của Lê Minh H.

b/ Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter, màu trắng, gắn BKS: 92H1-648.40 (SK:4614EZ324484;SM:JF46E7024503); 01Giấy đăng ký xe mô tô số 055115 mang tên Lê Minh H và 01 ĐTDĐ hiệu Iphone màu vàng nhạt của Lê Minh H.

c/ Trả lại cho Trần L 01ĐTDĐ hiệu Iphone màu vàng nhạt gắn 01 sim số 0354.202.502 và 01 CMND số 206.209.725 mang tên Trần L.

Toàn bộ số vật chứng trên hiện nay do Chi cục Thi hành án quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/10/2020.

3/ Án phí hình sự sơ thẩm: mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo và người liên quan biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2020/HS-ST ngày 23/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:71/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về