Bản án 71/2020/HNGĐ-ST ngày 14/01/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 71/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Trong ngày 14 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 581/2018/TLST-HNGĐ, ngày 16 tháng 11 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 5852/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 18064/2019/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1988 (vắng mặt) Địa chỉ: Đường P, phường B, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Lee, Min-H, sinh năm 1990 (vắng mặt) Quốc tịch: Trung Quốc (Đài Loan).

Địa chỉ: lộ T, khóm P, phường VX, khu TH, thành phố CH, Đài Loan. Bà Nguyễn Thị Q đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 30/10/2018 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Q trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Lee, Min-H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 100 ngày 24/7/2018. Sau khi kết hôn, Bà và ông Lee, Min-H xảy ra nhiều mâu thuẫn trầm trọng không thể giải quyết được. Tháng 8 năm 2018, ông Lee, Min-H trở về Đài Loan sinh sống và cắt đứt mọi liên lạc với bà, mặc dù bà đã nhiều lần tìm cách liên hệ với ông Lee, Min-H nhưng không có kết quả. Bà xác nhận hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông Lee, Min-H.

Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có.

Vì bận việc, bà yêu cầu được vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án.

Bị đơn là ông Lee, Min-H, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ: Tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo ngày, giờ và địa điểm mở phiên họp hòa giải, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án thông qua thủ tục ủy thác tư pháp đến Cơ quan có thẩm quyền của lãnh thổ Đài Loan theo địa chỉ của bị đơn do nguyên đơn cung cấp. Đồng thời, yêu cầu ông Lee, Min-H có văn bản gửi Tòa án trình bày ý kiến về việc bà Quyến khởi kiện yêu cầu ly hôn (theo văn bản ủy thác tư pháp số 151/TTTPDS-TA30 ngày 22/3/2019). Bộ Tư pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có văn bản đề nghị Cơ quan có thẩm quyền của lãnh thổ Đài Loan thực hiện các công việc cần thiết để thực hiện ủy thác tư pháp theo quy định. Theo đó, Cơ quan có thẩm quyền của lãnh thổ Đài Loan đã thực hiện ủy thác tư pháp nêu trên vào ngày 11/7/2019 bằng phương thức gửi hồ sơ ủy thác tư pháp cho người làm thuê của đương sự. Nhưng cho đến nay, ông Lee, Min-H vẫn không có văn bản phản hồi cho Tòa án.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về vụ án: Về tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo trình tự tố tụng của Bộ luật tố tụng dân sự quy định về địa vị tố tụng và đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Về nội dung, Kiểm sát viên phân tích yêu cầu của nguyên đơn xin ly hôn bị đơn là phù hợp và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Xét yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Thị Q, Hội đồng xét xử nhận thấy bà Q và ông Lee, Min-H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn. Vì vậy căn cứ vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp, khi một trong các bên có yêu cầu ly hôn, Tòa án xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Bị đơn là ông Lee, Min-H hiện cư trú tại Đài Loan nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35 và khoản 1 Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự trong vụ án:

Nguyên đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, yêu cầu cung cấp bản khai; thông báo ngày, giờ, địa điểm xét xử nhưng đến thời điểm xét xử Tòa án vẫn không nhận được phản hồi của bị đơn. Vì vậy căn cứ quy định tại Điều 227; Điều 228; khoản 5 Điều 477 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Xét yêu cầu của bà Nguyễn Thị Q yêu cầu ly hôn ông Lee, Min-H, Hội đồng xét xử xét thấy: Qua lời trình bày của bà Q (bà Q cam kết chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời khai của bà) thì thực tế sau khi kết hôn bà Q và ông Lee, Min- H phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết được. Từ khi kết hôn cho đến nay, bà Q và ông Lee, Min-H không có quá trình chung sống lâu dài, do khoảng cách địa lý nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, hai bên chưa có sự gắn kết sâu đậm về tình cảm vợ chồng. Hiện nay bà Q và ông Lee, Min-H đang sinh sống ở hai nước khác nhau nên khả năng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy bà Q yêu cầu ly hôn với ông Lee, Min-H là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung, tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà Q khai không có, Tòa án không xem xét.

[5] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho bà Quyến được ly hôn với ông Lee, Min-H là phù hợp với thực tế nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, bà Nguyễn Thị Q chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 5 Điều 477, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 121 và Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Q.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Q được ly hôn với ông Lee, Min-H.

Giấy chứng nhận kết hôn số 100 do Ủy ban nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Nguyễn Thị Q và ông Lee, Min-H không còn giá trị pháp lý.

1.2. Về con chung, tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà Nguyễn Thị Q khai không có, Tòa không xét.

2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, bà Nguyễn Thị Q chịu và được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà bà Q đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2017/0045656 ngày 14/11/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Q đã nộp đủ tiền án phí.

3. Bà Nguyễn Thị Q được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án. Ông Lee, Min-H được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 71/2020/HNGĐ-ST ngày 14/01/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:71/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về