Bản án 71/2019/HS-ST ngày 29/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN THÀNH PHỐ SƠN LA - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 71/2019/HS-ST NGÀY 29/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số: 79/2019/HS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/QĐXX ngày 15/7/2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Hồng Q, tên gọi khác: không; Sinh ngày 29 tháng 6 năm 1993 tại Vĩnh Phúc; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn Y, xã Hướng Đạo, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc; Chỗ ở hiện nay: thôn Y, xã Hướng Đạo, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc; Dân tộc: Kinh; Trình độ văn hoá:7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Hồng Đ, sinh năm 1967; con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1973; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: không; tiền sự: có 02 tiền sự vào ngày 21/11/2018 bị Công an tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy mức phạt tiền 500.000,đ (đã nộp xong tiền phạt); Ngày 24/01/2019 bị UBND huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt về hành vi Tàng trữ trái phép pháo hoa, mức phạt 5.000.000,đ (chưa nộp phạt).

Bị cáo bị tạm giữ tạm giam từ ngày 03/5/2019 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

 2. Nguyễn Văn T; tên gọi khác: không; Sinh ngày 12 tháng 3 năm 1993 tại Vĩnh Phúc; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn Đ, xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc; Dân tộc: Kinh; Trình độ văn hoá:7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1958; con bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1965; Bị cáo có vợ Nguyễn Thị Ánh P, chưa có con; Tiền án: không; tiền sự: có 01 tiền sự vào ngày 10/7/2018 bị Công an huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Cố ý gây thương tích.

Bị cáo bị tạm giữ tạm giam từ ngày 03/5/2019 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Phí Thanh Tùng, sinh năm 1987, trú tại bản Mé, phường Chiềng Cơi, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 02/5/2019, Nguyễn Hồng Q và Nguyễn Văn T đi xe khách từ huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc lên thành phố Sơn La chơi. Khoảng 07 giờ sáng ngày 03/5/2019 Q và T đến Bến xe Sơn La, cả hai đi bộ lên Trung tâm thành phố. Khi đến trụ sở cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Sơn La, Q và T nhìn thấy trong nhà xe cơ quan có để 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA Drem màu nâu, biển kiểm soát 26B2-20189 là xe của anh Phí Thanh Tùng trú tại bản Mé, phường Chiềng Cơi, thành phố Sơn La. Quan sát không có ai, khu vực nhà xe vắng, Q và T thống nhất lấy trộm chiếc xe trên. Q đứng ngoài cảnh giới, T mang bộ vam phá khóa sẵn trong người phá khóa và sau khi phá xong T gật đầu ra hiệu cho Q. Tiếp đó T đi bộ ra ngoài đường Quốc lộ đón xe tăcxi đi về hướng Hà Nội. Q xách theo chiếc túi vải màu đen đến vị trí chiếc xe máy, Q thấy khóa điện đã mở, trên xe treo mũ bảo hiểm, có 01 áo mưa. Q đội mũ lên đầu, vo áo mưa cho vào túi vải, điều khiển xe về hướng Hà Nội. Trên đường đi Q cắm 01 phôi chìa khóa vào ổ điện để tránh sự nghi ngờ. Nguyễn Văn T đi đến đường Lê Duẩn thuộc địa phận xã Noong La, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La thì gặp Q cùng đến. T xuống xe tắcxi và lên xe máy cùng Q về Hà Nội. Trên đường đi đến khu vực đất trống cả hai dừng lại dùng clê mang theo tháo yếm xe, gương chiếu hậu và biển số vứt đi và thay biển số 29L5-29272 vào, tiếp tục di chuyển theo hướng Hà Nội. Q vứt bỏ mũ bảo hiểm và áo mưa dọc đường (không nhớ địa điểm).

Khi đến khu vực xã Vân Hồ, Q và T bị Công an huyện Vân Hồ phát hiện và dẫn giải về trụ sở làm việc.

Tại Công an huyện Vân Hồ, Q và T thừa nhận toàn bộ hành vi và tự giác giao nộp: 01 túi vải màu đen có chữ DOHA; 01 chiếc Clê bằng kim loại kích cỡ hai đầu 8-10, loại hai đầu mở, có chữ BERRYLION; 01 chiếc Clê bằng kim loại kích cỡ hai đầu 10-10, loại một đầu đóng, một đầu mở, có chữ CHROME- VANADIUM; 02 chiếc chìa khóa xe máy, lưỡi chìa khóa bằng kim loại có chiều dài 06cm, tay nắm bằng nhựa đen có chữ HONDA; 01 chiếc chìa khóa xe máy, lưỡi chìa khóa bằng kim loại có chiều dài 3,1cm, tay nắm bằng nhựa đen có chữ YAMAHA; 01 chiếc chìa khóa xe máy, lưỡi chìa khóa bằng kim loại có chiều dài 5,4cm, bên trên có chữ số Y1080, tay nắm bằng nhựa đen; 06 sợi dây kim loại màu nâu đỏ có chiều dài từ 7,2 cm đến 10,3cm; 01 chiếc tay công bằng kim loại có chiều dài 16,5cm một đầu gắn đầu khẩu loại 6 cạnh, cỡ 8mm; Một đầu khẩu bằng kim loại 6 cạnh, chiều dài 5cm, cỡ 8mm; 01 biển số xe máy mã biển 37N1-310.31;

01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA Drem màu nâu, biển kiểm soát 29L5 229-72, tại ổ khóa có cắm 01 chìa khóa có chữ HONDA; 01 áo sơ mi dài tay màu trắng, sọc đen; 01 biển số xe máy mã biển 29L5-229.72; 01 chiếc chìa khóa xe máy, phần tay nắm bằng nhựa đen có chữ HONDA, tất cả đều đã qua sử dụng.

Ngày 03/5/2019, anh Phí Thanh Tùng có đơn trình báo tại Công an thành phố Sơn La về việc gia đình bị mất tài sản.

Tại Kết luận số 20/KL-HĐĐGTS ngày 08/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản UBND thành phố Sơn La xác định:

- 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA Drem màu nâu mua và sử dụng năm 2012 có trị giá 12.000.000,đ

- 01 áo mưa chòang màu đỏ trị giá 30.000,đ

- 01 mũ bảo hiểm loại nửa đầu không có kính trị giá 50.000,đ

Tổng giá trị tài sản hai bị cáo chiếm đoạt có trị giá 12.080.000,đ (mười hai triệu không trăm tám mươi ngàn đồng).

Ngày 10/6/2019, anh Phí Thanh Tùng có đơn và đã được nhận lại tài sản là 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA Drem màu nâu, BKS 26B1-201.89 đã qua sử dụng và không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì khác.

Tại bản Cáo trạng số 84/KSĐT ngày 11 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Nguyễn Hồng Q và Nguyễn Văn T cùng về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hồng Q và Nguyễn Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại phiên toà, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Hồng Q và Nguyễn Văn T về tội Trộm cắp tài sản, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, khoản 1 Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng Q từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ tạm giam ngày 12/4/2019, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ tạm giam ngày 12/4/2019.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy:

- 01 túi vải màu đen có chữ DOHA đã qua sử dụng;

- 01 chiếc Clê bằng kim loại kích cỡ hai đầu 8-10, loại hai đầu mở, có chữ BERRYLION;

- 01 chiếc Clê bằng kim loại kích cỡ hai đầu 10-10, loại một đầu đóng, một đầu mở, có chữ CHROME-VANADIUM đã qua sử dụng;

- 02 chiếc chìa khóa xe máy, lưỡi chìa khóa bằng kim loại có chiều dài 06cm, tay nắm bằng nhựa đen có chữ HONDA đã qua sử dụng;

 - 01 chiếc chìa khóa xe máy, lưỡi chìa khóa bằng kim loại có chiều dài 3,1cm, tay nắm bằng nhựa đen có chữ YAMAHA đã qua sử dụng;

- 01 chiếc chìa khóa xe máy, lưỡi chìa khóa bằng kim loại có chiều dài 5,4cm, bên trên có chữ số Y1080, tay nắm bằng nhựa đen đã qua sử dụng;

- 06 sợi dây kim loại màu nâu đỏ có chiều dài từ 7,2 cm đến 10,3cm đã qua sử dụng;

- 01 chiếc tay công bằng kim loại có chiều dài 16,5cm một đầu gắn đầu khẩu loại 6 cạnh, cỡ 8mm đã qua sử dụng;

- Một đầu khẩu bằng kim loại 6 cạnh, chiều dài 5cm, cỡ 8mm đã qua sử dụng;

 - 01 biển số xe máy mã biển 37N1-310.31;

- 01 áo sơ mi dài tay màu trắng, sọc đen đã qua sử dụng;

- 01 biển số xe máy mã biển 29L5-229.72 đã qua sử dụng;

- 01 chiếc chìa khóa xe máy, phần tay nắm bằng nhựa đen có chữ HONDA đã qua sử dụng (tổng 13 khoản)

Đề nghị chấp nhận anh Phí Thanh Tùng đã được nhận tài sản là 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA Drem màu nâu, BKS 26B1-201.89 đã qua sử dụng và không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì khác.

Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Ý kiến của bị cáo Nguyễn Hồng Q và bị cáo Nguyễn Văn T đều nhất trí như Quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát đối với các bị cáo tại phiên toà. Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào Nghị án, các bị cáo có ý kiến xin được hưởng mức án thấp nhất trong khung hình phạt, để nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng, là người làm ăn lương thiện trong xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn la, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo: Ngày 03/5/2019, tại Trụ sở Bảo hiểm xã hội tỉnh Sơn La, Nguyễn Hồng Q, Nguyễn Văn T cùng thực hiện hành vi lén lút, bí mật chiếm đọat 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA Drem màu nâu, BKS 26B1- 201.89, 01 áo mưa chòang màu đỏ, 01 mũ bảo hiểm loại nửa đầu không có kính của anh Phí Thanh Tùng trú tại bản Mé, phường Chiềng Cơi, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt xác định là có trị giá 12.080.000 đồng (mười hai triệu không trăm tám mươi ngàn đồng), mục đích đem đi cầm cố, cắm lấy tiền chi tiêu cá nhân.

Hành vi nêu trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Quyết định truy tố và quan điểm luận tội tại phiên tòa của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Tại Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

1." Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

2…………………………………………………………………………………………

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”.

Xét hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo với trị giá tài sản bị chiếm đoạt là không lớn, mục đích chiếm đoạt tài sản là đem bán lấy tiền tiêu xài. Các bị cáo đồng phạm tội giản đơn. Hành vi đó đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật Nhà nước bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo biết rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng cố ý thực hiện. Cần áp dụng khoản 1 Điều 17, khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự để lên mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về nhân thân bị cáo: Các bị cáo đều có nhân thân xấu, không có tiền án nhưng đã từng bị Tòa án xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Cố ý gây thương tích” nay đã được xóa án, bị cáo T có 01 tiền sự bị xử phạt hành chính phạt tiền về hành vi Cướp giật tài sản. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi vi phạm của mình, người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên các bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có việc làm ổn định, thu nhập thấp, gia đình bị cáo không có tài sản gì có giá trị, bị cáo không có tài sản riêng.

[3] Về vấn đề bồi thường thiệt hại: Chấp nhận anh Phí Thanh Tùng đã được nhận tài sản là 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA Drem màu nâu, BKS 26B1- 201.89 đã qua sử dụng và không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì khác.

[4] Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng là phương tiện, công cụ các bị cáo dùng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 11 tháng 7 năm 2019 giữa Công an thành phố và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La).

[5] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hồng Q, Nguyễn Văn T cùng phạm tội: Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng Q 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ tạm giam ngày 03/5/2019.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ tạm giam ngày 03/5/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy - 01 túi vải màu đen có chữ DOHA đã qua sử dụng;

- 01 chiếc Clê bằng kim loại kích cỡ hai đầu 8-10, loại hai đầu mở, có chữ BERRYLION;

- 01 chiếc Clê bằng kim loại kích cỡ hai đầu 10-10, loại một đầu đóng, một đầu mở, có chữ CHROME-VANADIUM đã qua sử dụng;

- 02 chiếc chìa khóa xe máy, lưỡi chìa khóa bằng kim loại có chiều dài 06cm, tay nắm bằng nhựa đen có chữ HONDA đã qua sử dụng;

- 01 chiếc chìa khóa xe máy, lưỡi chìa khóa bằng kim loại có chiều dài 3,1cm, tay nắm bằng nhựa đen có chữ YAMAHA đã qua sử dụng;

- 01 chiếc chìa khóa xe máy, lưỡi chìa khóa bằng kim loại có chiều dài 5,4cm, bên trên có chữ số Y1080, tay nắm bằng nhựa đen đã qua sử dụng;

- 06 sợi dây kim loại màu nâu đỏ có chiều dài từ 7,2 cm đến 10,3cm đã qua sử dụng;

- 01 chiếc tay công bằng kim loại có chiều dài 16,5cm một đầu gắn đầu khẩu loại 6 cạnh, cỡ 8mm đã qua sử dụng;

- Một đầu khẩu bằng kim loại 6 cạnh, chiều dài 5cm, cỡ 8mm đã qua sử dụng;

- 01 biển số xe máy mã biển 37N1-310.31;

- 01 áo sơ mi dài tay màu trắng, sọc đen đã qua sử dụng;

- 01 biển số xe máy mã biển 29L5-229.72 đã qua sử dụng;

- 01 chiếc chìa khóa xe máy, phần tay nắm bằng nhựa đen có chữ HONDA đã qua sử dụng (tổng 13 khoản).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 11 tháng 7 năm 2019 giữa Công an thành phố và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Hồng Q, Nguyễn Văn T mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo Nguyễn Hồng Q, Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại Phí Thanh Tùng (vắng mặt) có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2019/HS-ST ngày 29/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:71/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về