Bản án 71/2019/HS-ST ngày 23/08/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 71/2019/HS-ST NGÀY 23/08/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 23 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 45/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 55/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 45/2019/HSST-QĐ ngày 26 tháng 7 năm 2019 đối với các bị cáo:

- Trần Văn T, sinh ngày 21/5/1992 tại thành phố H; nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 3/12; con ông Trần Văn P (đã chết) và bà Đỗ Thị T; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 16/3/2019; có mặt.

- Đỗ Việt A, sinh ngày 14/02/1998 tại thành phố H; nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Đỗ Hữu T (đã chết) và bà Trần Thị T; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 16/3/2019; có mặt.

- Lê Hồng P, sinh ngày 21/6/1990 tại thành phố H; nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Lê Văn Đ và bà Nghiêm Thị B; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 16/3/2019; có mặt.

- Trần Minh N, sinh ngày 02/11/1998 tại thành phố H; nơi cư trú: Thôn M, xã T, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con Trần Minh N và bà Đỗ Thị T; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 16/3/2019; có mặt.

- Bị hại:

Anh Đỗ Văn Q, sinh năm 1992; nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố H; vắng mặt.

Anh Đỗ Văn Đ, sinh năm 1994; nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố H; có mặt từ khi bắt đầu phiên tòa, đến phần tuyên án thì vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 13/02/2018, Trần Văn T và anh Đỗ Văn Đ, sinh năm 1994 cùng ở xã T, huyện T hát Karaoke ở nhà hàng X thuộc xã N, huyện T. Trong lúc chọn bài hát giữa T và anh Đ xảy ra mâu thuẫn dẫn đến cãi chửi, đánh nhau, anh Đ có hành vi cầm chai bia đánh vào đầu T làm T bị chảy máu đầu. Sau đó, T đi ra cổng nhà hàng X thì gặp bạn là Trần Minh N, Đỗ Việt A đi đến, T đã kể lại chuyện muân thuẫn với anh Đ. Thấy anh Đ đang ở khu vực ngoài nhà hàng, T, A, N dồn đuổi theo anh Đ để đánh nhưng không đuổi được.

Khoảng 00 giờ 15 phút ngày 15/02/2018, T, A, N đang ngồi chơi ở nhà A ở thôn N, xã T, huyện T thì A nhận được điện thoại của anh Đ hẹn giải quyết mâu thuẫn. A nói lại với T và N “anh em thằng G (tức Đỗ Văn Đ) hẹn đến xóm C”. Biết sẽ đi đánh nhau với anh em Đ, T bảo A, N chuẩn bị hung khí và gọi điện cho bạn là Lê Hồng P kể về mâu thuẫn với anh Đ, T bảo P có hung khí thì mang theo, tập trung ở nhà văn hóa thôn N, xã T để đi đánh nhau. P đồng ý mang theo 02 tuýp sắt dài 1,2 m, đường kính 02 cm, 01 đèn pin. A lấy 01 giáo bằng kim loại dài khoảng 1,76 m, N về nhà lấy giáo cán gỗ dài khoảng 1,88 cm, mũi giáo nhọn dài 30 cm. T về nhà lấy 01 đao dài 01m, lưỡi bằng kim loại dài 60 cm, bản rộng 08 cm, mũi nhọn rồi cung đến tập trung tại nhà văn hóa thôn N, xã T. Tại nhà văn hóa thôn N, xã T, P đưa cho T cầm đèn pin, sau đó cả nhóm cầm hung khí đi bộ đến điểm hẹn ở cầu thôn C nhưng không gặp anh Đ nên cả nhóm đi đến nhà anh Đ gần đó ở thôn B, xã T. Khi đến nhà anh Đ, thấy nhà tắt điện, N, P, A cầm hung khí đứng ở ngoài đường gọi anh Đ, còn T đi mua nước uống. Lúc này, anh Đỗ Văn Q (anh trai Đ) đi cùng Nguyễn Văn K, sinh năm 1997 ở cùng xã T về nhà gọi “G ơi”. Anh Đ nghe thấy tiếng anh Q gọi hiểu là đánh nhau nên đã cầm 01 kiếm tự chế dài khoảng 90cm mở cửa từ trong nhà chạy ra cổng. Anh Đ cầm kiếm, anh Q cầm 01 dao dài khoảng 25 cm, bản rộng 08 cm đuổi theo N, A, P còn K chạy theo sau. Thấy anh Q, Đ cầm hung khí đuổi, N, P, A bỏ chạy về chỗ T, sau đó cả nhóm chạy vào trong ngõ gần đó. Thấy vậy, anh Đ và anh Q không đuổi theo nhóm T vào trong ngõ mà đứng ngoài đường chửi và bỏ về, đối tượng K và anh Q đi về trước, anh Đ đi phía sau cùng. Khi anh Đ đi được khoảng hơn 5m- 6m thì nghe có bước chân chạy đằng sau, anh Đ liền quay đầu lại thì phát hiện 01 đối tượng cầm giáo gần chỗ mình đang bị vấp ngã văng giáo ra, thấy vậy anh Đ lập tức lao nhanh đến cầm đao chém về phía N, N liền giơ tay trái lên đỡ theo quán tính ngã thì bị chém sượt vào mu bàn tay trái. Ngay sau đó anh Đ quay đầu lại bỏ chạy nhanh về phía anh Q vì phát hiện đồng đội của nhóm T chạy sắp đến chỗ mình. P, A chạy phía sau nhìn thấy vậy, ngay khi đó P dùng 01 tuýp ném về phía bị hại nhưng không trúng ai và tuýp văng rơi xuống mương. Sau đó cả nhóm bị cáo tiếp tục đuổi theo. Khi anh Đ chạy về phía anh Q thì nhìn thấy anh Q quay đầu lại, anh Đ chạy đến dừng lại để cùng nghênh tiếp. Bị cáo A dùng giáo vụt vào người anh Q làm dao của anh Q bị rơi xuống đường, N cầm giáo đâm 02 nhát về phía anh Q nhưng không trúng. Anh Q cúi xuống nhặt dao thì bị A, P dùng tuýp và giáo vụt làm anh Q gục xuống đường. Anh Đ cầm kiếm chạy đến chỗ anh Q chém về phía P, A, N. Thấy vậy, T cầm đao chém 01 nhát vào vai trái phía sau lưng của anh Đ làm anh Đ bị thương. Thấy anh Q, anh Đ bị thương, T, A, P, N không đánh nữa, cầm hung khí bỏ chạy về hướng thôn N. Trên đường bỏ chạy, T đánh rơi đèn pin, vứt đao ở khu vực vườn bỏ hoang của bà Lê Thị V, ở thôn N, xã T. N, A đưa giáo của mình cho P cầm. Anh Q và anh Đ bị thương được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện T.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 112 ngày 13/3/2018 của Trung tâm Pháp y thành phố H kết luận: Đỗ Văn Đ có vết thương rách đứt da cơ lớn vùng vai lưng trái và xây xước da tay chân đã được điều trị tạm thời ổn định, còn để lại sẹo lớn ảnh hưởng thẩm mỹ tại vết thương và ảnh hưởng chức năng chưa giơ được tay trái lên cao.

Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của nạn nhân do vết thương vai trái gây nên là 12%. Các vết xây xước da không đủ lớn để đánh giá tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể. Vết thương vai trái có đặc điểm do vật sắc tác động trực tiếp dây nên theo hướng chủ yếu từ sau ra trước, hơi chếch từ trên xuống dưới và hơi vuốt từ phải sang trái (phù hợp với vết chém chứ không phải vết đâm).

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 125 ngày 22/3/2018 của Trung tâm Pháp y thành phố H kết luận: Đỗ Văn Q bị sang chấn vào vùng đầu ngực nhưng không được ghi nhận dấu vết thương tích bên ngoài hồ sơ bệnh án sao của bệnh viện T. Chụp cắt lớp sọ não có hình ảnh tổn thương não cũ đã dịch hóa ở thùy trán phải và nghi có tổn thương củ ở xoang trán phải, không có tổn thương sọ não mới. Đã được điều trị tương đối ổn định. Điện não đồ chưa thấy bất thường.

Khi khám giám định nạn nhân còn kêu đau choáng đầu nhưng kết quả chụp cắt lớp sọ não từ lúc nhập viện đến khi giám định không có tổn thương sọ não mới mà chỉ có tổn thương não cũ ở thùy trán phải. Đồng thời điện não đồ chưa thấy bất thường nên không có căn cứ đánh giá tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể; Vùng chẩm phải có 01 đám da nhẵn nhỏ, mọc ít tóc, không rõ sẹo không được ghi nhận có vết thương vùng này trong hồ sơ bệnh án và không đủ lớn để đánh giá tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể. Thương tích trên có đặc điểm do vật tày tác động gây nên.

Tại cơ quan điều tra các bị cáo, bị hại đã khai nhận toàn bộ hành vi và sự việc xảy ra như đã nên trên.

Về dân sự: Các bị cáo T, N, A, P và gia đình đã bồi thường cho gia đình anh Q, anh Đ tổng số tiền 75.000.000 đồng. Hiện tại anh Q vắng mặt tại địa phương, bị hại chưa có quan điểm về yêu cầu bồi thường nên Cơ quan điều tra tách phần dân sự để xử lý sau.

Đỗ Văn Đ đã có đơn xin miễm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo T, N, A, P được xem xét là bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Bị cáo T bị anh Đ đánh vào đầu vào ngày 13/02/2018, bị cáo N bị anh Đ chém vào mu bàn tay và đều trình bày thương tích nhẹ của mình do anh Đ gây ra không ảnh hưởng gì đến sức khỏe bản thân cho nên đều không yêu cầu giám định thương tích, bồi thường thiệt hại và truy tố đối với anh Đ. Hành vi của anh Đ, anh Q đã bị cơ quan Công an xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 đôi dép tông, 03 cục đá không xác định được hình dạng; 01 giáo tự chế dài 1,76 m phần đầu gắn lưỡi giáo kim loại sắc, mũi giáo bị cong tù; 01 giáo tự chế bằng kim loại dài 1,88 m, đầu nhọn xoắn; 01 tuýp sắt dài 1,2 m; 01 thanh kiếm tự chế dài 90 cm chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện T chờ xử lý.

Bản Cáo trạng số 45/CT-VKSTN ngày 29 tháng 4 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố các bị cáo về tội Cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự (Viết tắt là BLHS).

Tại phiên tòa: Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện như nội dung nêu trên và các bị cáo T, N, A, P trình bày đã bồi thường thiệt hại tổng số tiền là 75.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại là anh Đ trình bày sự việc diễn ra như nội dung nêu trên phù hợp với lời khai của các bị cáo và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, anh Đ cũng thừa nhận các bị cáo đã bồi thường tổng số tiền 75.000.000 đồng, anh Đ không có ý kiến gì khác.

Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố là tình tiết định khung “có tính chất côn đồ” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 134 của BLHS đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 của BLHS: Xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách tương ứng theo quy định.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 của BLHS: Xử phạt bị cáo Đỗ Việt A từ 24 tháng đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách tương ứng theo quy định.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 của BLHS: Xử phạt bị cáo Lê Hồng P từ 24 tháng đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách tương ứng theo quy định.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 của BLHS: Xử phạt bị cáo Trần Minh N từ 24 tháng đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách tương ứng theo quy định.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của BLHS và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) tịch thu tiêu hủy 01 đôi dép tông, 03 cục đá không xác định được hình dạng; 01 giáo tự chế dài 1,76 m phần đầu gắn lưỡi giáo kim loại sắc, mũi giáo bị cong tù; 01 giáo tự chế bằng kim loại dài 1,88 m, đầu nhọn xoắn; 01 tuýp sắt dài 1,2 m; 01 thanh kiếm tự chế dài 90 cm. Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Hành vi, quyết định tố tụng của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Về tội danh và điều luật áp dụng:

[3]. Lời khai của các bị cáo và bị hại tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có trong hồ sơ, đủ căn cứ kết luận: Xuất phát từ sự việc vào ngày 13/02/2018, giữa anh Đỗ Văn Đ và bị cáo Trần Văn T có mâu thuẫn với nhau, anh Đ có hành vi đánh vào đầu T chảy máu dẫn đến sự việc vào ngày 15/02/2018 các bị cáo T, N, A, P đã có hành vi dùng đao, giáo, tuýp gây thương tích cho bị hại làm cho bị hại giảm 12% sức khỏe. Hành vi của các bị cáo đã phạm tội Cố ý gây thương tích được quy định trong BLHS. Vậy, hành vi dùng đao, giáo, tuýp được xác định là hung khí nguy hiểm và thiệt hại cao nhất về sức khỏe của người bị hại là 12% nên các bị cáo đã phạm tội Cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của BLHS. Cáo trạng số 45/CT-VKSTN ngày 29 tháng 4 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện T truy tố các bị cáo như đã nêu trên là đúng pháp luật. Hành vi của các bị cáo là hung hãn, coi thường pháp luật, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khoẻ của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của từng bị cáo để cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[4]. Về vai trò của từng bị cáo: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, hành vi phạm tội của các bị cáo mặc dù xuất phát từ hành vi vi phạm pháp luật của bị hại, có lỗi một phần của bị hại, các bị cáo phạm tội do sự bồng bột, bột phát, không có sự bàn bạc, tổ chức, phân công nhiệm vụ cụ thể nhưng phải xem xét tính chất hành vi, vai trò tham gia phạm tội của từng bị cáo để phân hóa tội phạm, áp dụng hình phạt tương xứng nhằm răn đe và giáo dục cho từng người phạm tội. Bị cáo T là người trực tiếp chém bị hại và tạo ra thương tích 12% cho anh Đ cho nên bị cáo T có vai trò là cao nhất, bị cáo A là người thực hành tích cực có hành vi dùng giáo vụt nhiều lần vào các bị hại tuy không để lại thương tích nhưng có vai trò thứ yếu sau bị cáo T. Bị cáo P có hành vi dùng tuýp đánh bị hại không tạo nên thương tích cho bị hại có vai trò thấp hơn bị cáo A. Bị cáo N là người dùng giáo đâm bị hại nhưng không trúng cho nên vai trò của bị cáo N là thấp nhất khi xem xét lượng hình phạt của từng bị cáo.

- Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất vụ án và hình phạt:

[5]. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng; các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại; bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho toàn bộ các bị cáo; các bị cáo T và N có thêm tình tiết giảm nhẹ là bị cáo T có bác ruột là ông Trần Văn C là liệt sĩ, bị cáo N có bác ruột là ông Trần Hồng T là liệt sĩ, gia đình bị cáo T, N đang hưởng chế độ và thờ cúng; Như vậy, các bị cáo T, N, A, P được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS. Từ phân tích trên, cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với từng bị cáo, xử phạt các bị cáo mức án theo mức đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp.

- Về dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các bị cáo:

[6]. Tại phiên tòa, các bị cáo trình bày đã bồi thường thiệt hại một phần là 40.000.000 đồng (Bị cáo P nộp 10.000.000 đồng tại Cục thi hành dân sự thành phố H theo Biên lai thu tiền số 0000184 ngày 05/7/2019), mỗi bị cáo bồi thường 10.000.000 đồng. Vào ngày 10/8/2019 các bị cáo bồi thường thêm cho anh Đ 35.000.000 đồng. Tổng cộng các bị cáo đã bồi thường cho bị hại là 75.000.000 đồng; hiện tại anh Q vắng mặt tại địa phương, cả anh Q và anh Đ chưa có quan điểm về yêu cầu bồi thường cụ thể nên Cơ quan điều tra tách phần dân sự để xử lý sau.

- Về xử lý vật chứng:

[7]. 01 đôi dép tông, 03 cục đá không xác định được hình dạng; 01 giáo tự chế dài 1,76 m phần đầu gắn lưỡi giáo kim loại sắc, mũi giáo bị cong tù; 01 giáo tự chế bằng kim loại dài 1,88 m, đầu nhọn xoắn; 01 tuýp sắt dài 1,2 m; 01 thanh kiếm tự chế dài 90 cm cần tịch thu tiêu hủy.

[8]. Trong vụ án này, đối tượng Nguyễn Văn K có hành vi cùng anh Q, anh Đ chạy đuổi N, A, P. Hiện tại, đối tượng K vắng mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra tách ra, xử lý sau. Theo trình báo của bà Lê Thị C, quá trình đánh nhau tại nhà bà bị hư hỏng 01 ti vi, hiện chưa xác định được đối tượng nên Cơ quan điều tra tách ra, xử lý sau.

- Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các bị cáo và bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134, các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 của BLHS: Xử phạt bị cáo Trần Văn T 36 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 tháng tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Trần Văn T cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134, các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 của BLHS: Xử phạt bị cáo Đỗ Việt A 30 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 tháng tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Đỗ Việt A cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134, các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 của BLHS: Xử phạt bị cáo Lê Hồng P 24 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 tháng tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Lê Hồng P cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134, các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 của BLHS: Xử phạt bị cáo Trần Minh N 24 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 tháng tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Trần Minh N cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt hành chính thì Tòa án có thể quyết định buộc người được án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 đôi dép tông, 03 cục đá không xác định được hình dạng; 01 giáo tự chế dài 1,76 m phần đầu gắn lưỡi giáo kim loại sắc, mũi giáo bị cong tù; 01 giáo tự chế bằng kim loại dài 1,88 m, đầu nhọn xoắn; 01 tuýp sắt dài 1,2 m; 01 thanh kiếm tự chế dài 90 cm (Chi tiết tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố H).

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc các bị cáo Trần Văn T, Đỗ Việt A, Lê Hồng P và Trần Minh N mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại là anh Đỗ Văn Q và anh Đỗ Văn Đ vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2019/HS-ST ngày 23/08/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:71/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về