Bản án 71/2019/HNGĐ-ST ngày 07/10/2019 về tranh chấp ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 71/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 07 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 147/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 33/2019/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Lệ A, sinh năm 1984.

Đa chỉ: Số 34, Trương Định, thôn 3, xã L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

2. Bị đơn: Anh Báo Hùng C, sinh năm: 1985.

Đa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn Đ, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

(Các đương sự đều có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn xin ly hôn và bản tự khai nguyên đơn chị Trần Thị Lệ A trình bày: Chị và anh C xây dựng gia đình với nhau năm 2007 trên cơ sở tự nguyện có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Cuộc sống chung của vợ chồng anh chị hòa thuận hạnh phúc được 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C thường xuyên uống rượu, bài bạc và đánh đập chị. Bên cạnh đó anh C còn xúc phạm tới bố mẹ chị. Vợ chồng anh chị cũng đã hòa giải quay về chung sống với nhau nhưng anh C vẫn không thay đổi. Cũng vì lý do anh C đe dọa sẽ giết chị nên chị đã bỏ nhà đi được khoảng hai tháng nay. Nay, chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Báo Hùng C.

Về con chung: Chị xác định vợ chồng có 03 con chung là cháu Báo Thị Ngọc U, sinh ngày 25/4/2008, cháu Báo Ngọc Quỳnh A, sinh ngày 21/9/2015 và cháu Báo Phương N, sinh ngày 06/6/2017. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi cháu Anh và cháu Nam, chị đồng ý giao cháu Uyên cho anh C chăm sóc nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị A xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị A xác định không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, bị đơn anh Báo Hùng C trình bày:

Anh và chị A xây dựng gia đình với nhau năm 2007 trên cơ sở tự nguyện có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Cuộc sống chung của vợ chồng anh chị thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng anh chị bất đồng quan điểm sống, bất đồng với nhau về vấn đề chi tiêu trong gia đình. Bên cạnh đó chị A thường xuyên bỏ nhà đi thời gian dài không chăm sóc con cái. Vào tháng 02/2018 vợ chồng anh chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, chị A đã nộp đơn ly hôn tại Tòa án sau đó lại rút đơn về. Đến đầu năm 2019 cho đến nay chị A đã bỏ nhà đi. Nay anh xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị A.

Về con chung: Anh xác định vợ chồng có 03 con chung là cháu Báo Thị Ngọc U, sinh ngày 25/4/2008, cháu Báo Ngọc Quỳnh A, sinh ngày 21/9/2015 và cháu Báo Phương N, sinh ngày 06/6/2017. Khi ly hôn, anh yêu cầu được nuôi cả 03 con chung. Anh không yêu cầu chị A phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh C xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh C xác định không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành hòa giải, chị Trần Thị Lệ A vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Lệ A. Về con chung: Giao con là Báo Phương N, sinh ngày 06/6/2017 cho chị Trần Thị Lệ A được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục và giao hai con chung là Báo Thị Ngọc U, sinh ngày 25/4/2008 và Báo Ngọc Quỳnh A, sinh ngày 21/9/2015 cho anh Báo Hùng C được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục theo nguyện vọng của con. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị A, anh C xác định không có tài sản chung, không có nợ chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

Về án phí: Buộc chị A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận của đương sự cũng như ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Trên cơ sở đơn khởi kiện nộp tại tòa của nguyên đơn chị Trần Thị Lệ A xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn”. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Lệ A thì thấy rằng:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Lệ A và anh Báo Hùng C xây dựng gia đình với nhau năm 2007, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 27/4/2007 nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Tại phiên tòa, chị A xác định mâu thuẫn đã trầm trọng kéo dài, không còn khả năng cải thiện nên chị A vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh C và anh C cũng đồng ý ly hôn. Xét thấy, trong quá trình chung sống chị A xác định cuộc sống chung của vợ chồng anh chị hòa thuận hạnh phúc được 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C thường xuyên uống rượu, bài bạc và đánh đập chị. Bên cạnh đó anh C còn xúc phạm tới bố mẹ chị. Vợ chồng anh chị cũng đã hòa giải quay về chung sống với nhau nhưng anh C vẫn không thay đổi. Cũng vì lý do anh C đe dọa sẽ giết chị nên chị đã bỏ nhà đi được khoảng hai tháng nay nên chị A giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh C. Anh C cho rằng cuộc sống chung của vợ chồng anh chị thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng anh chị bất đồng quan điểm sống, bất đồng với nhau về vấn đề đất đai với gia đình cũng như kinh tế gia đình khó khăn dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Bên cạnh đó chị A thường xuyên bỏ nhà đi thời gian dài không chăm sóc con cái. Vào tháng 02/2018 cho đến nay vợ chồng anh chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn trầm trọng. Nay anh chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu giải quyết ly hôn. Đồng thời, Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương thì thấy rằng trong thời gian chung sống tại địa phương thì vợ chồng anh chị thường xuyên xảy ra xô sát, đánh nhau. Nguyên nhân cũng do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, bên cạnh đó anh C cũng thường xuyên uống rượu. Nếu tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân của anh chị cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai. Vì vậy, căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cần chấp nhận đơn xin ly hôn của chị A, xử cho chị A và anh C được ly hôn là hoàn toàn phù hợp.

[2.2] Về con chung: Chị A xác định vợ chồng chị có ba con chung là cháu Báo Thị Ngọc U, sinh ngày 25/4/2008, cháu Báo Ngọc Quỳnh A, sinh ngày 21/9/2015 và cháu Báo Phương N, sinh ngày 06/6/2017. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi cháu Anh và cháu Nam, chị đồng ý giao cháu Uyên cho anh C chăm sóc nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Còn anh C yêu cầu được nuôi cả ba cháu, không yêu cầu chị A phải cấp dưỡng nuôi con.

Tại phiên tòa, chị A vẫn giữ nguyên yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cháu Báo Ngọc Quỳnh A và Báo Phương N, chị đồng ý giao cháu Uyên cho anh C chăm sóc nuôi dưỡng; còn anh C cũng giữ nguyên yêu cầu được nuôi cả ba con. Xét thấy cháu Báo Phương N chưa được 36 tháng tuổi nên cần sự chăm sóc, gần gũi của mẹ nhiều hơn, còn cháu Báo Thị Ngọc U hiện nay đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng ở với bố khi bố mẹ ly hôn, còn đối với cháu Báo Ngọc Quỳnh A hiện vẫn đang sống ổn định cùng bố. Để đảm bảo cuộc sống ổn định và điều kiện phát triển bình thường cho con chung, căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, giao con là Báo Phương N, sinh ngày 06/6/2017 cho chị Trần Thị Lệ A có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con. Giao con là Báo Thị Ngọc U, sinh ngày 25/4/2008 và Báo Ngọc Quỳnh A, sinh ngày 21/9/2015 cho anh Báo Hùng C có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng và sự ổn định của con là phù hợp với ý chí của các bên cũng như phù hợp với nguyện vọng và điều kiện phát triển toàn diện của các con. Về việc cấp dưỡng nuôi con, do các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung: Chị A và anh C xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[2.4] Về nợ chung: Chị A, anh C xác định vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Buc chị Trần Thị Lệ A phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 53; khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điu 147; Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

n cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Trần Thị Lệ A, xử cho chị Trần Thị Lệ A và anh Báo Hùng C được ly hôn.

2. Về con chung: Giao con là Báo Phương N, sinh ngày 06/6/2017 cho chị Trần Thị Lệ A có trách nhiệm trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con. Giao hai con là Báo Thị Ngọc U, sinh ngày 25/4/2008 và Báo Ngọc Quỳnh A, sinh ngày 21/9/2015 cho anh Báo Hùng C có trách nhiệm trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con; Quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Chị Trần Thị Lệ A phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị A đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số AA/2016/0001172 ngày 08 tháng 5 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, chị A đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự”.

Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 07/10/2019) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

478
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2019/HNGĐ-ST ngày 07/10/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:71/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về