Bản án 70/2021/HNGĐ-ST ngày 29/04/2021 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 70/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ XIN LY HÔN

Trong ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau. Xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 22/2021/HNGĐ-ST ngày 19 tháng 01 năm 2021 về việc yêu cầu xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 219/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1978 (có mặt).

Cư trú tại: Số 151B, đường K, khóm 4, phường 6, thành phố M, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1975 (vắng mặt).

Cư trú tại: Số 151B, đường K, khóm 4, phường 6, thành phố M, tỉnh Cà Mau.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng thương mại cổ phần Đ - chi nhánh Cà Mau; trụ sở: Số 137K, đường T, phường 8, thành phố M, tỉnh Cà Mau. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Chị Nguyễn Thị X trình bày tại đơn khởi kiện và được bổ sung tại phiên tòa như sau:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Thanh T chung sống với nhau năm 1996, đến ngày 20/8/2004 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 6, thành phố M, tỉnh Cà Mau. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, do không thể hòa hợp về quan điểm sống, về kinh tế, bản thân chị và anh T đã tự hàn gắn nhiều lần nhưng không thành. Hiện chị và anh T đã ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Nhận thấy cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc nên chị yêu cầu ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị và anh T có 02 con chung tên Nguyễn Duy T, sinh ngày 17/7/1996 và Nguyễn Mai Phương N, sinh ngày 29/12/2006. Khi ly hôn, đối với cháu Nguyễn Duy T hiện đã thành niên nên không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết;chị yêu cầu được nuôi cháu Nguyễn Mai Phương N, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con đối với anh T.

- Về tài sản chung: Chị xác định chị và anh T tự thỏa thuận, không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị xác định chị và anh T có nợ Ngân hàng thương mại cổ phần Đ (gọi tắt là Ngân hàng) số tiền 400.000.000 đồng. Khi ly hôn, chị yêu cầu chia đôi khoản nợ trên, mỗi người sẽ chịu trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng số tiền 200.000.000 đồng.

- Anh Nguyễn Thanh T trình bày tại bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Về thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn đúng như lời trình bày của chị X. Quá trình chung sống giữa anh và chị X có phát sinh nhiều mâu thuẫn, một phần do anh bỏ bê không chăm lo gia đình. Anh và chị X đã ly thân từ năm 2019 đến nay. Hiện anh xin được sửa chữa để vợ chồng hàn gắn chung sống với nhau nên chị X xin ly hôn thì anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh và chị X có 02 con chung tên Nguyễn Duy T, sinh ngày 17/7/1996 và Nguyễn Mai Phương N, sinh ngày 29/12/2006. Nếu ly hôn, đối với cháu Nguyễn Duy T hiện đã thành niên nên không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết; đối với cháu Nguyễn Mai Phương N thì anh thống nhất theo ý kiến nguyện vọng của cháu N muốn sống với ai thì người đó nuôi, hiện cháu N có ý kiến sống cùng mẹ nên anh đồng ý giao cháu N cho chị X nuôi dưỡng, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh xác định vợ chồng có nợ chung, cụ thể: Nợ Ngân hàng thương mại cổ phần Đ (gọi tắt là Ngân hàng) số tiền 400.000.000 đồng. Khi ly hôn, anh yêu cầu chia đôi khoản nợ trên, mỗi người anh và chị X sẽ chịu trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng số tiền 200.000.000 đồng.

Đối với Ngân hàng thương mại cổ phần Đ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng đại diện Ngân hàng thương mại cổ phần Đ vắng mặt không có lý do, cũng không có văn bản ý kiến gửi đến Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Nội dung tranh chấp giữa chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Thanh T được xác định là tranh chấp về ly hôn, bị đơn anh T có nơi cư trú tại phường 6, thành phố M nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Thanh T và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đại diện Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng tại phiên tòa vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T, đại diện Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ theo quy định tại các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Thanh T chung sống với nhau vào năm 1996, đến năm 2004 chị X và anh T có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân phường 6, thành phố Cà Mau nên hôn nhân của chị X, anh T được công nhận là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Hiện chị X xin ly hôn với anh T, anh T không đồng ý ly hôn. Theo lời trình bày của chị X tại phiên tòa do vợ chồng sống không hợp nhau, thường xuyên cự cãi, và có nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn. Anh T mong muốn được hàn gắn nhưng anh T không đến Tòa án tham gia phiên tòa, trong quá trình hòa giải anh T không đưa ra được phương hướng hàn gắn để vợ chồng về chung sống với nhau. Hiện chị X xác định không còn tình cảm với anh T và kiên quyết xin ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy, cuộc sống chung giữa chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Thanh T mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt đựơc, hiện chị X, Anh T đã ly thân hơn 01 năm nay, mỗi người có cuộc sống riêng, không ai quan tâm chăm sóc ai. Do đó, có cơ sở chấp nhận lời trình bày và yêu cầu của chị Nguyễn Thị X về việc xin ly hôn với anh Nguyễn Thanh T.

[3] Về con chung: Chị X và anh T có 02 con chung tên Nguyễn Duy T, sinh ngày 17/7/1996 và Nguyễn Mai Phương N, sinh ngày 29/12/2006. Hiện đối với cháu Nguyễn Duy T đã thành niên nên chị X, anh T không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với cháu Nguyễn Mai Phương N thì chị X, anh T thống nhất theo ý kiến nguyện vọng của cháu N muốn sống với ai thì người đó nuôi. Tại biên bản ghi nhận ý kiến của cháu N vào ngày 26/01/2021 cháu N có ý kiến sống cùng mẹ nên giao cháu N cho chị X tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

Anh T không trực tiếp nuôi con nhưng được quyền tới lui thăm nom con chung không ai được ngăn cản.

Về cấp dưỡng nuôi con, chị X không đặt ra yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi cháu Nghi nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Chị X và anh T xác định tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về nợ chung: Chị X và anh T khai có nợ Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ số tiền 400.000.000 đồng. Khi ly hôn mỗi người có trách nhiệm trả ½. Hội đồng xét xử xét thấy, đối với số nợ trên là nợ chung của chị X và anh T, nên mỗi người phải có trách nhiệm trả ½. Tuy nhiên, hiện Ngân hàng thương mại cổ phần Đ không có khởi kiện yêu cầu độc lập, cũng không có ý kiến gì đối với số nợ trên. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét số nợ trên trong cùng vụ án. Nếu giữa các đương sự có phát sinh tranh chấp thì Ngân hàng có quyền khởi kiện, giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự ở một vụ án dân sự khác.

[5] Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình: Chị X phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 147, 207, 227, 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị X về việc xin ly hôn với anh Nguyễn Thanh T.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Mai Phương N, sinh ngày 29/12/2006 cho chị Nguyễn Thị X tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, không đặt ra yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Đối với Nguyễn Duy T, sinh ngày 17/7/1996 đã trưởng thành, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh T không trực tiếp nuôi con nhưng được quyền tới lui thăm nom con chung không ai được ngăn cản.

Về tài sản chung; nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét.

Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng, chị Nguyễn Thị X phải chịu. Chị X đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo biên lai số 0000520 vào ngày 19/01/2021, được đối trừ chị X đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị X, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T, Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Đông có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2021/HNGĐ-ST ngày 29/04/2021 về xin ly hôn

Số hiệu:70/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về