Bản án 70/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 70/2020/HS-ST NGÀY 19/11/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 19 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 72/2020/TLST-HS, ngày 03 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Lã Trung H, sinh năm 1995; nơi sinh và nơi cư trú: Xóm TP, xã HX, huyện HH, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lã Văn Q, sinh năm 1962 và bà Trần Thị L, sinh năm 1965; vợ là Nguyễn Thị T, sinh năm 1994; có 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 29-12-2019 đến ngày 07-01-2020 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

- Bị hại: Phạm Thị M, sinh năm 1972; địa chỉ: Xóm 10, xã HT, huyện HH, tỉnh Nam Định.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn V;

2. Anh Lã Văn Q;

3. Chị Nguyễn Thị T;

4. Chị Phạm Thị Thanh H.

(Có mặt bị cáo; vắng mặt bị hại, người làm chứng).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 10/2019, Lã Trung H dùng facebook cá nhân mang tên “Bố Ken” lên mạng xã hội thấy bài viết facebook “Hà Phạm” của chị Phạm Thị Thanh H, sinh năm 1995, ở xóm 10, xã Hải Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định đăng trong nhóm “Những người con Hải Hậu” với nội dung cần tìm người am hiểu pháp luật giúp đỡ gia đình giải quyết vụ việc tranh chấp đất đai giữa gia đình bà Phạm Thị M, sinh năm 1972 là mẹ đẻ của chị H và gia đình ông Phạm Công Phát, đều ở xóm 10, xã Hải Trung, huyện Hải Hậu, vụ việc đã được Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định giải quyết nhưng gia đình bà M không nhất trí với quyết định của Tòa án, (chị H quay lại toàn bộ quá trình xét xử rồi đăng phát trên facebook của mình). Sau khi xem xong Hòa nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản gia đình bà M. Hòa lên mạng nghiên cứu tìm hiểu luật đất đai, những vấn đề liên quan đến tranh chấp đất đai, tên những lãnh đạo của tỉnh, Trung ương rồi Hòa chủ động liên hệ với chị H qua facebook. Sau đó, Hòa sử dụng tài khoản facebook mang tên “Nhật Linh” nhắn tin nói chuyện với chị H và giới thiệu bản thân tên là Linh, sinh năm 1992, ở thị trấn Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định làm Báo Pháp luật và Đời sống và có quen anh Lê Quốc Hùng, sinh năm 1983, ở thị trấn Cồn, hiện đang ở Thành phố Nam Định là Phó trưởng ban thanh tra quản lý đất đai thuộc Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Nam Định, kiêm cán bộ thuộc Ban phòng chống tham nhũng của Trung ương có thể giúp gia đình bà M thắng kiện trong vụ án tranh chấp đất đai trên. Hòa cho chị H số điện thoại 0941.642.909 của mình nhưng nói là số điện thoại của Lê Quốc Hùng. Bà M đã liên lạc qua số điện thoại và gặp trực tiếp Hòa. Khi gặp bà M, Hòa giới thiệu là Lê Quốc Hùng và để lại số điện thoại 0961.620.004 và nói đó là số điện thoại của ông Hải đang làm việc tại Tòa án nhân dân tối cao sẽ giúp gia đình bà M thắng kiện trong vụ tranh chấp trên (người tên Lê Quốc Hùng, Hải là do Hòa tự nghĩ ra). Bà M gọi điện vào số 0961.620.004, Hòa giả mạo là ông Hải, hướng dẫn gia đình bà M làm đơn gửi các cơ quan chức năng như: Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng thi Hnh án tỉnh Nam Định, Sở Tư pháp, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Nam Định, Cục thi Hnh án dân sự tỉnh Nam Định và yêu cầu bà M phô tô, công chứng nhiều loại giấy tờ liên quan sau đó cho vào phong bì kèm theo tiền lệ phí để nộp đơn. Hòa giả mạo Lê Quốc Hùng trực tiếp nhận để nộp cho các cơ quan chức năng tỉnh Nam Định và Trung ương. Để tạo sự tin tưởng, Hòa lên mạng xã hội tải về hai hình ảnh người mặc quần áo quân phục sau đó tạo 2 tài khoản zalo “Ngã zẽ cuộc đời” với tên Phan và “Lê Khánh”, tên Khánh là hai người thuộc lực lượng bảo vệ trong quân đội được Lê Quốc Hùng nhờ bảo vệ cho gia đình bà M và nhắn tin qua zalo yêu cầu gia đình bà M cung cấp giờ giấc sinh hoạt của mọi tHnh viên trong gia đình, yêu cầu lắp camera an ninh để phục vụ cho việc “Phan” và “Khánh” bảo vệ an toàn cho gia đình bà M. Từ ngày 05/11/2019 đến ngày 25/12/2019, Hòa đã nhiều lần gặp bà M tại gia đình bà M và quán nước trên địa bàn thị trấn Yên Định để nhận phong bì có chứa đơn, tài liệu phô tô, 01 lắc tay vàng tây trị giá 7.860.000đ và tổng số tiền 99.108.000đồng. Đến ngày 29/12/2019, Lã Trung Hòa đến Công an huyện Hải Hậu đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá số 35A/KL – HĐĐG ngày 15/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện Hải Hậu kết luận: 01 lắc tay bằng kim loại màu vàng có đính đá nhỏ ở một phần tư của lắc được để trong một hộp màu đỏ bên dưới có ghi trên tờ giấy: 01 lắc tay Vtây PNJ 650 (lắc 2c444 x 2850 + 900 = 7.860.000) có trị giá là 7.860.000đồng.

Ngoài ra, Lã Trung H còn nhờ gia đình bà Phạm Thị M mua: 03 kg tôm biển, 02 kg tôm nuôi, 01 gói hạt nêm rong biển (loại 1 kg), 05 kg thịt bò, 01 kg mực tươi, 02 kg cá khoai, 02 kg giò bò, 01 kg giò xào, 02 kg nho đen, 02 kg nho xanh, 03 kg táo, 05 gói bánh nhãn, 14 bộ quần áo trẻ em cho bé trai, 02 áo sơ mi nam màu trắng, 01 bộ quần áo thể thao nam, 02 bộ quần áo thể thao nữ, 01 đôi giày thể thao nam, 01 đôi giày thể thao nữ, 01 đôi giày búp bê nữ, 01thỏi son. Do tài sản không thu hồi được, không có cơ sở định giá cho nên không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Lã Trung Hòa.

Cáo trạng số 71/CT-VKS-HH, ngày 02/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu đã truy tố bị cáo Lã Trung H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lã Trung H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo thừa nhận đã phạm tội, hứa sửa chữa lỗi lầm và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về Hnh vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hải Hậu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đều tuân thủ đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các Hnh vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến Hnh tố tụng, người tiến Hnh tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của bị hại. Hnh vi của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai người làm chứng, kết luận định giá tài sản và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đầy đủ cở sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 05-11-2019 đến ngày 25-12-2020 bằng thủ đoạn gian dối của mình, Lã Trung H đã chiếm đoạt của bà Phạm Thị M với tổng số tiền 106.968.000đ (một trăm linh sáu triệu chín trăm sáu mươi tám nghìn đồng). Do đó Hnh vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu tHnh tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ.

[3] Hnh vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ nên cần phải xử lý nghiêm khắc, áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo khỏi cộng đồng xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự. Trong vụ án bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo tHnh khẩn, ăn năn hối lỗi; tự nguyền bồi thường khắc phục hậu quả, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; sau khi phạm tội bị cáo đã đến Công an huyện Hải Hậu để đầu thú nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và đang nuôi con nhỏ nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả cho bị hại. Đến nay bị hại không có yêu cầu bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra đã thu giữ của bị cáo H 02 chiếc điện thoại đi động bị cáo đã sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung quỹ nH nước; 01 bút camera, 02 USB, 01 túi sách giả da, 01 cặp cầu vai, 01 quyển sổ, 03 sim điện thoại H sử dụng vào việc phạm tội và 04 ảnh màu, 10 phong bì thư và các giấy từ khác không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố bị cáo Lã Trung H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt Lã Trung H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi Hnh án được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 29-12-2019 đến ngày 07-01-2020.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ nH nước 02 chiếc điện thoại đi động; tịch thu tiêu huỷ 01 bút camera, 02 USB, 01 túi sách giả da, 01 cặp cầu vai, 01 quyển sổ, 03 sim điện thoại đã thu giữ của Lã Trung H trong quá trình điều tra không còn giá trị sử dụng.

(Vật chứng được mô tả theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/11/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Hải Hậu và Chi cục Thi Hnh án dân sự huyện Hải Hậu).

3. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Lã Trung H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Trong trường hợp bản án được thi Hnh theo quy định tại Điều 2 Luật Thi Hnh án dân sự, thì bị cáo có quyền tự nguyện thi Hnh án hoặc bị cưỡng chế thi Hnh án. Thời hạn thi Hnh án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi Hnh án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:70/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về