Bản án 26/2017/HSST ngày 03/07/2017 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC, TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 26/2017/HSST NGÀY 03/07/2017 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 03 tháng 07 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2017/HSST ngày 11 tháng 05 năm 2017, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2016/HSST-QĐ ngày 13/7/2016; Quyết định hoãn phiên tòa số: 30/2017/HSST-QĐ ngày 28 tháng 6 năm 2017; đối với bị cáo

Huỳnh Thanh T; Sinh năm 1991, tại ĐN; Nơi cư trú: Thôn 6, xã ĐR, huyện ĐRL, tỉnh ĐN; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Con ông: Huỳnh Văn M (sinh năm 1963) và bà Trần Thanh T (sinh năm 1962); bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/7/2016 đến ngày 11/01/2017 được thay thế bằng biện pháp cho Bảo lĩnh. Hiện đang bị tạm giam trong vụ án khác – có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Lã Văn Đ, sinh năm: 1975; có mặt; và chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1976; Vắng mặt. Nơi cư trú: Thôn 6, xã ĐBS, huyện TĐ, tỉnh ĐN.

Người có quyền lợi liên quan: Ông Huỳnh Văn M, Sinh năm: 1963 – Có mặt. Nơi cư trú: Thôn 6, xã ĐR, huyện ĐRL, tỉnh ĐN.

Người m chứng: Anh Quách Trường T1, sinh năm 1985; Địa chỉ: Số 119 Ấp TT A, xã T L T, huyện CT, tỉnh HG – Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 23/12/2015, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh ĐN ban hành Quyết định số 2097/QĐ – UBND về chủ trương đầu tư xây dựng dự án chợ ĐBS, huyện TĐ, tỉnh ĐN giao cho Công ty Cổ phần đầu tư du lịch APT I (do Huỳnh Thanh T làm tổng giám đốc) thực hiện. Đến ngày 25/02/2016, UBND tỉnh ĐN mới chính thức có quyết định số 262/QĐ – UBND về việc cho Công ty Cổ phần đầu tư du lịch APT I thuê đất (thời hạn 49 năm có thu tiền sử dụng đất) để thực hiện dự án đầu tư xây dựng chợ ĐBS với diện tích 16.738.000m2 .

Trong quá trình xuống kiểm tra việc xây dựng dự án chợ xã ĐBS, T có quen biết với anh Lã Văn Đ (là chủ đại lý kinh doanh phân bón Đ L) có cửa hàng đối diện với đất dự án xây dựng chợ. Biết anh Đ có nhu cầu mua đất tại khu vực chợ và nắm được thông tin UBND huyện TĐ có chủ trương xin thêm đất để mở rộng chợ xã ĐBS nên T chủ động gặp anh Đ và chào bán lô đất mặt đường tỉnh lộ 681 giáp với đất dự án xây dựng chợ tại thôn 3, xã ĐBS, có kích thước chiều ngang 20m, chiều dài 25m, diện tích 500m2 với giá 165.000.000 đồng/m, tổng cộng 3.300.000.000 đồng (ba tỷ ba trăm triệu đồng). T đưa ra thông tin gian dối nói với anh Đ đây là đất của T và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ), nhưng trên thực tế T chưa được cấp (đến ngày 17/3/2016 T mới làm tờ trình gửi UBND huyện TĐ xin thêm đất để mở rộng dự án xây dựng chợ). Biết T là Tổng giám đốc Công ty ATP I và đang xúc tiến việc xây dựng chợ, lô đất T rao bán lại gần kề khu vực chợ nên anh Đ tưởng là thật và nhận lời mua. Đến ngày 12/01/2016, T đi cùng Quách Trường T1 đến gặp vợ chồng anh Đ nhận số tiền cọc 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng). Còn lại 3.000.000.0000 đồng (ba tỷ đồng), hẹn hai tháng sau, khi T làm xong thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giao sổ đỏ đứng tên vợ chồng anh Đ thì vợ chồng anh Đ sẽ giao nốt số tiền còn lại. T là người viết giấy tờ tay nhận tiền cọc đất, ký tên và đóng dấu công ty APT I với chức vụ Tổng giám đốc. Khi đã quá thời hạn trên, anh Đ đã nhiều lần yêu cầu T thực hiện theo nội dung đã thỏa thuận nhưng T chỉ hứa hẹn mà không thực hiện. Đến ngày 04/7/2016, anh Đ viết đơn tố cáo hành vi lừa đảo của T lên công an huyện TĐ để xử lý theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức đã xác định được tại thời điểm T sang nhượng lô đất cho anh Đ chính quyền địa phương chưa có quy hoạch cụ thể và đất không có sổ đỏ. UBND huyện cũng chưa có quy hoạch chi tiết đối với diện tích xin mở rộng chợ ĐBS và cũng chưa giao cho cá nhân hay tổ chức nào quản lý, sử dụng.

Căn cứ vào kết quả làm việc với Sở tài nguyên môi trường tỉnh ĐN và phòng tài nguyên môi trường huyện TĐ xác định: Công ty APT I không được chuyển nhượng thành đất thổ cư (đất ở ổn định lâu dài) cho cá nhân ông Lã Văn Đ, đối với các hộ kinh doanh hợp đồng mua ki ốt của công ty APT I đầu tư xây dựng tại dự án chợ ĐBS cũng không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà chỉ làm hợp đồng chuyển nhượng với thời hạn sử dụng bằng thời hạn công ty APT I được thuê là 49 năm.

Tại bản kết luận giám định số 66 ngày 21/11/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh ĐN xác định: hình dấu tròn có nội dung “Công ty cổ phần đầu tư – du lịch APT I là do cùng một con dấu đóng ra; chữ ký mang tên Huỳnh Thanh T là do cùng một người ký; chữ viết Huỳnh Thanh T là do cùng một người viết.

Về vật chứng của vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra (CSĐT) đã tiến hành thu giữ 01 thẻ nhớ 4GB lưu lại video hình ảnh việc giao dịch nhận tiền đặt cọc 300.000.000 đồng; 01 giấy đặt cọc thỏa thuận bán đất (sang nhượng quyền sử dụng đất).

Về phần bồi thường dân sự: Quá trình điều tra Huỳnh Thanh T đã tác động đến gia đình bồi thường đủ số tiền 300.000.000 đồng mà T chiếm đoạt của vợ chồng anh Lã Văn Đ. Anh Đ đã gửi đơn xin bãi nại cho T.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh ĐN truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 139 của Bộ luật hình sự là đúng, không oan.

Người bị hại Lã Văn Đ thừa nhận lời khai của bị cáo là đúng sự thật. Trong quá trình thỏa thuận mua bán đất chỉ có Huỳnh Thanh T và gia đình anh Đ bàn bạc và thỏa thuận với nhau. Khi nhận tiền Quách Trường T1 chỉ là người làm chứng lúc nhận tiền đặt cọc và xách cặp đựng tiền về cho T.

Người làm chứng Quách Trường T1khai nhận: không biết việc thỏa thuận mua bán đất giữa T và anh Đ, tuy nhiên có đi cùng T khi đi nhận tiền và xách cặp cho T. Khi T mang tiền về nhà tại ĐR, ĐRL thì T trả nợ và chi tiêu cá nhân, bản thân T1 không biết T sử dụng cụ thể như thế nào.

Tại cáo trạng số 21/Ctr-VKS ngày 10/5/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức truy tố bị cáo Huỳnh Thanh T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 139 của Bộ luật hình sự.

Trong phần luận tội tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất của vụ án, chứng minh hành vi phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo; giữ nguyên nội dung quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139; điểm b,p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Huỳnh Thanh T: Từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam.

Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 thẻ nhớ 4GB lưu lại video hình ảnh việc giao dịch nhận tiền đặt cọc 300.000.000 đồng; 01 giấy đặt cọc thỏa thuận sang nhượng quyền sử dụng đất đã thu giữ được lưu trong hồ sơ vụ án làm tài liệu chứng cứ nên không đề cập xử lý.

Về phần bồi thường dân sự: Người bị hại anh Lã Văn Đ và chị Nguyễn Thị L trong quá trình điều tra và tại phiên tòa anh Lã Văn Đ không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không đề cập giải quyết.

Phần tranh luận bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng: Xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuy Đức, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và người bị hại không có người nào có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng, của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị cáo Huỳnh Thanh T có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển mọi hành vi của bản thân trong cuộc sống. Bị cáo cũng như pháp luật buộc bị cáo phải biết tài sản thuộc sở hữu, quản lý hợp pháp của người khác là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Song do ý thức coi thường pháp luật, mục đích tư lợi cá nhân nên vào ngày 12/01/2016, Huỳnh Thanh T với danh nghĩa Tổng giám đốc Công ty cổ phần đầu tư du lịch APT I được UBND tỉnh ĐN cho thuê đất để thực hiện việc xây dựng dự án chợ xã ĐBS, lợi dụng sự tin tưởng của vợ chồng anh Lã Văn Đ, chị Nguyễn Thị L, T đã có hành vi đưa ra thông tin gian dối, không đúng sự thật để sang nhượng quyền sử dụng một thửa đất có vị trí mặt đường giáp tỉnh lộ 681, với diện tích 500m2 không thuộc quyền quản lý, sử dụng của mình (giáp với đất dự án xây dựng chợ xã ĐBS) để chiếm đoạt của vợ chồng anh Đ, chị L số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng).

Vì vậy, đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Huỳnh Thanh T phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 139 của Bộ luật hình sự, cụ thể:

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a, Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng”.

Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm hại đến tài sản thuộc quyền sở hữu của anh Đ, chị L. Do vậy, HĐXX xét thấy để đảm bảo việc giáo dục bị cáo có ý thức chấp hành nghiêm pháp luật cũng như răn đe phòng ngừa chung, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ mà bị cáo gây ra, đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội. Song tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã tác động đến gia đình bồi thường, khắc phục toàn bộ hậu quả cho người bị hại và người bị hại có đơn xin bãi nại, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần áp dụng điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 139 BLHS quy định:

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”. Vì trước khi phạm tội bị cáo là Tổng giám đốc Công ty cổ phần đầu tư - du lịch APT I có số vốn góp ghi trong giấy phép kinh doanh là 06 tỷ đồng do vậy HĐXX xét thấy cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Tại phiên tòa người có quyền lợi liên quan đến vụ án không có yêu cầu bị cáo trả lại số tiền đã trả cho người bị hại, nên không xem xét.

Đối với Quách Trường T1: là người đi cùng T đến nhà anh Đ để nhận tiền, nhưng không tham gia bàn bạc, thỏa thuận việc mua bán đất và không được hưởng lợi gì từ hành vi của T nên không có căn cứ để xử lý trách nhiệm.

Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 thẻ nhớ 4GB lưu lại video hình ảnh việc giao dịch nhận tiền đặt cọc 300.000.000 đồng; 01 giấy đặt cọc thỏa thuận sang nhượng quyền sử dụng đất là vật chứng được đưa vào hồ sơ vụ án nên không đề cập xử lý.

Về phần bồi thường dân sự: Người bị hại anh Lã Văn Đ và chị Nguyễn Thị L không  yêu cầu bồi thường là tự nguyện nên cần chấp nhận. Vì vậy không đề cập giải quyết.

Về án phí: Buộc bị cáo Huỳnh Thanh T phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thanh T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 33 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Thanh T: 07 năm 06 tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/7/2016 đến ngày 11/01/2017.

Áp dụng khoản 5 Điều 139 của Bộ luật hình sự áp dụng hình phạt bổ sung là m20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng.

2/Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14. Buộc bị cáo Huỳnh Thanh T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo và người bị hại có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết tại UBND xã nơi cư trú.

Người có quyền lợi liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án về vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi của minh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2017/HSST ngày 03/07/2017 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:26/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về