Bản án 70/2019/HS-ST ngày 06/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 70/2019/HS-ST NGÀY 06/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2019/QĐXXST ngày 23 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo :

Đỗ Văn S, sinh ngày 29 tháng 6 năm 1970 Nơi cư trú: thôn D xã T, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa : 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Đỗ Văn H con bà Trịnh Thị T (đều đã chết). Bị cáo có vợ là Đặng Thị Giang H1, sinh năm 1975 (đã ly hôn), bị cáo có 02 con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 1998 Tiền sự: Không Tiền án: Bản án số 02/2018/HSST ngày 31/01/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xử phạt 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” đến ngày 18/8/2018 chấp hành xong hình phạt tù.

Nhân thân: Còn nhỏ được gia đình nuôi cho ăn học hết lớp 7/10, sau đó ở nhà lao động tự do. Tại bản án số 509/2004/HSPT ngày 16/4/ 2004 bị Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 24 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ”. Tại bản án số 36/2010/HSST ngày 10/6/ 2010 bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tại bản án số 02/2014/HSST ngày 16/01/2014 bị Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, TP Hải Phòng xử phạt 12 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Các bản án này bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/4/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Thái Bình. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chị: Trần Thị Bích H3, sinh năm 1973  (Có mặt)

Nơi cư trú: SN a, Trần Quang K, phường T, TP Nam Định, tỉnh Nam Định

- Người làm chứng:

Anh: Đặng Đình K, sinh năm 2001 (Vắng mặt)

Nơi cư trú: thôn T, xã S, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Anh: Nguyễn Thái C, sinh năm 1976 (Vắng mặt)

Nơi cư trú: SN b, đường K, tổ x phường B, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 09/4/2019, Đặng Đình K thuê anh Nguyễn Thái C (là xe ôm) chở đến xã P, huyện Thái Thụy. Khi đang đi trên đường 456, thuộc địa phận thôn 3 L, xã P, K nhìn thấy Đỗ Văn S nên bảo anh C dừng xe lại, sau đó K đến hỏi S “Có ma túy không để cho em 300.000 đồng”. S đồng ý bán ma túy cho K, K đưa cho Số 300.000 đồng, S cầm tiền và lấy 01 gói ma túy trong túi quần đang mặc đưa cho K. K nhận ma túy của S cho vào túi quần đang mặc thì bị Công an tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Tại đây trước sự chứng kiến của những người làm chứng, Công an tỉnh Thái Bình kiểm tra người K thu giữ trong túi quần phía trước K đang mặc có 01 túi nilon trong suốt, bên trong có chứa chất dạng tinh thể trong suốt, K khai nhận đó là ma túy vừa mua của Số. Kiểm tra thu giữ trong túi quần S đang mặc 300.000 đồng, số khai đó là tiền vừa bán ma túy cho K, kiểm tra người Số còn thu giữ 01 túi nilon màu đen, bên trong có thực vật màu xanh, S khai nhận là do nhặt được. Khám xét khẩn cấp nơi ở của S cơ quan điều tra còn thu giữ 01 túi nilon trong suốt, mở ra bên trong có chứa các hạt tinh thể trong suốt, S khai đó là ma túy mua về để bán kiếm lời. Cơ quan công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, quản lý và niêm phong vật chứng gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 115/KLGĐ-PC 09 ngày 11/4/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận “Mẫu M1 gửi giám định thu giữ của Đỗ Văn S có khối lượng là 4,1766 gam (không đủ điều kiện giám định); Mẫu M3 thu giữ của Đỗ Văn S gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,4495 gam; Mẫu gửi giám định thu giữ của Đặng Đình K gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,0720 gam” Tại bản kết luận giám định số 2098/C09-TT2 ngày 31/5/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ công an kết luận “Không tìm thấy chất ma túy trong mẫu thực vật màu xanh” (phong bì ký hiệu mẫu M1) gửi giám định.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Văn S không có ý kiến hay khiếu nại về các kết luận giám định nêu trên.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

Chị Trần Thị Bích H3 trình bày: Chị với bị cáo S là bạn bè, chiều ngày 09/4/2019, bị cáo S mượn chiếc điện thoại Iphone của chị để chơi điện tử nhưng chưa trả cho chị, hiện cơ quan điều tra đã thu giữ chiếc điện thoại trên, chiếc điện thoại này không liên quan gì đến việc phạm tội nên chị đề nghị xin lại.

Luận tội của kiểm sát viên: Vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị HĐXX Áp dụng khoản 1 Điều 251, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 02 năm 09 tháng đến 03 năm 03 tháng tù, không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản riêng. Áp dụng khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự : Trả lại bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng; 01 ví da màu đen; số tiền 4.200.000 đồng. Trả lại chị Trần Thị Bích H3 01 điện thoại Iphone đã qua sử dụng. Tịch thu tiêu hủy số ma túy là loại Methamphetamine thu giữ của bị cáo và của anh Đặng Đình K và đối tượng giám định cùng vỏ bao gói được hoàn trả lại trong niêm phong số 2098 của Viện khoa học hình sự- Bộ công an, cùng 01 cân điện tử tử không còn giá trị thu giữ của Đỗ Văn S. Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 300.000 đồng do bị cáo bán ma túy cho anh K mà có; buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và nói lời sau cùng: Bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác vắng mặt được công bố tại phiên tòa .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dan huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Người làm chứng vắng mặt nhưng tại giai đoạn điều tra họ đã có lời khai đầy đủ lưu trong hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án [3]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Đỗ Văn S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã xác định. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, truy tố phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản quản lý niêm phong vật chứng, các bản kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[4]. Như vậy đủ căn cứ để xác định: Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 09/4/2019, tại đường 456 thuộc địa phận thôn 3 L, xã P, huyện Thái Thụy, Công an tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang Đỗ Văn S có hành vi bán phép 01 gói ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,0720 gam cho Đặng Đình K lấy 300.000 đồng. Khám xét khẩn cấp nơi ở của S còn thu giữ 0,4495 gam ma túy loại Methamphetamine, mục đích để bán kiếm lời. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy do nhà nước độc quyền quản lý, nhưng vẫn thực hiện hành vi mua bán, thể hiện sự coi thường pháp luật. Hành vi đó của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Do đó cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[5]. Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống, là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn cho xã hội. Bị cáo là người có nhân thân xấu, không chịu tu chí làm ăn mà vẫn lao vào con đường phạm tội, năm 2018 đã bị xử phạt 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do ngườ khác phạm tội mà có” chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý nên lần phạm tội này bị cáo bị áp dụng một tình tiết tăng nặng là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do đó cần phải quyết định một hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo phấn đấu trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[6]. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, phải đi thuê nhà để sinh sống, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[7]. Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo khai mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên, đặc điểm nhận dạng, địa chỉ cụ thể ở bến xe khách thị trấn Diêm Điền nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh xử lý.

[8]. Đối với anh Đặng Đình K là người mua ma túy của Đỗ Văn S với mục đích sử dụng cho bản thân, anh K chưa có tiền án, tiền sự về tội liên quan đến ma túy, lượng ma túy thu giữ của anh K chưa đủ định lượng để khởi tố nên cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với anh K là đúng quy định.

[9]. Về xử lý vật chứng của vụ án:

Số ma túy là loại Methamphetamine cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo Đỗ Văn S và của anh Đặng Đình K sau khi lấy mẫu giám định còn lại là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Đối tượng giám định cùng vỏ bao gói được hoàn trả lại trong niêm phong số 2098 của Viện khoa học hình sự - Bộ công an cùng 01 cân điện tử thu giữ của Đỗ Văn S, bị cáo không đề nghị nhận lại và không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng; 01 ví da màu đen; số tiền 4.200.000 đồng thu giữ của bị cáo Đỗ Văn S xác định không liên quan đến phạm tội cần tuyên trả lại bị cáo.

01 điện thoại Iphone đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo là của chị Trần Thị Bích H3 không liên quan đến phạm tội cần trả lại cho chị Hậu.

Số tiền 300.000 đồng là tiền bị cáo bán ma túy cho anh K mà có cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

 1.Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Văn S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

2.Về hình phạt:

Căn cứ khoản 1 Điều 251, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn S 02 năm 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09 tháng 4 năm 2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

3.Về xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ 0,4084 gam Methamphetamine còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định; Đối tượng giám định cùng vỏ bao gói được hoàn trả lại trong niêm phong số 2098 của Viện khoa học hình sự - Bộ công an cùng 01 cân điện tử thu giữ của bị cáo Đỗ Văn S; 0,0600 gam Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu giám định thu giữ của anh Đặng Đình K.

Trả lại bị cáo Đỗ Văn S số tiền 4.200.000 đồng, 01 ví da màu đen; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng. Trả lại chị Trần Thị Bích H3 01 điện thoại di động Iphone đã qua sử dụng.

(Tất cả vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan công an và Chi cục thi hành án huyện Thái Thụy ngày 11 tháng 7 năm 2019)

4.Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về Án phí, Lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đỗ Văn S phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm .

5. Về quyền kháng cáo bản án:

Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2019/HS-ST ngày 06/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:70/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về