Bản án 70/2019/HSST ngày 03/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 70/2019/HSST NGÀY 03/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 72/2019/HSST ngày 31 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc T (Tên gọi khác – Bầu), Sinh ngày 01/6/1988 - tại tỉnh Bình Thuận; Nơi ĐKHKTT: Kp15, phường MN, thành phố Phan Thiết; Chỗ ở: kp1, phường HT, thành phố Phan Thiết; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: không; Con ông: Nguyễn Văn L - sinh năm 1960 – nghề nghiệp: làm biển; Con bà: Nguyễn Thị T1 - sinh năm 1963 - nghề nghiệp: nội trợ, Hiện cùng trú tại: kp15, phường MN, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 07/01/2019, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Thiết “Có mặt”.

*/ Người làm chứngTrần Phong H, sinh năm 1988 (vắng mặt). 

Địa chỉ: kp6, phường MN, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 00 phút ngày 06/01/2019, Nguyễn Ngọc T dùng điện thoại di động của T có sim số 0763.844.430 gọi điện thoại cho đối tượng tên X (không rõ nhân thân và hiện T cũng không còn nhớ số thuê bao) hỏi mua “hộp 10 ma túy” (tức là 10 gam ma túy đá) với giá 5.500.000 đồng thì X đồng ý và hẹn T đến khu Công nghiệp Hàm kiệm II, thuộc xã Hàm Kiệm, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận để giao dịch. Khoảng 01 tiếng sau thì T điều khiển xe mô tô (do T mượn của một người quen, hiện không rõ nhân thân, và không nhớ biển số) đến điểm hẹn. Tại đây, X đưa cho T 01 bịch nylon bên trong có ma túy gồm: 02 bịch lớn và 50 gói nhỏ. T nhận số ma túy trên và thanh toán tiền cho X. Có được ma túy T bọc vào trong người rồi điều khiển xe về phòng trọ tại khu phố 1, phường Hàm Tiến cất giấu với mục đích sử dụng và bán lại cho các con nghiện trên địa bàn để kiếm lời.

Đến 03 giờ 00 phút ngày 07/01/2019, T đang ở phòng trọ thì nhận được điện thoại của Trần Phong H (sinh năm 1988, trú tại khu phố 6, phường Mũi Né, Tp. Phan Thiết) hỏi mua 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng thì T đồng ý và hẹn H đến lò bánh mì (thuộc khu phố 4, phường Hàm Tiến, TP.Phan Thiết) để giao dịch (do đã lâu nên hiện T và H đều không nhớ số điện thoại của H dùng để liên lạc). Nghe điện thoại xong, T điều khiển xe mô tô biển số 86C1-667.07 đến địa điểm đã hẹn nhưng không thấy H nên T quay về lại phòng trọ.

Theo lời khai của Trần Phong H: Khi đến địa điểm đã hẹn để thực hiện giao dịch mua bán ma túy nhưng không gặp T nên H điều khiển xe về phòng trọ tìm T.

Tại đây, T đưa cho H 01 gói nhỏ ma túy đá, H nhận số ma túy trên và thanh toán 200.00 đồng cho T (H không nhớ rõ mệnh giá tiền). Có được ma túy, H mang về nhà để sử dụng (H bỏ vào nỏ đốt rồi hút). Vừa sử dụng xong thì bị Đồn biên phòng Mũi Né kiểm tra, lập biên bản (kết quả xét nghiệm H dương với ma túy). Tuy nhiên quá trình điều tra, T chỉ thừa nhận việc thỏa thuận bán ma túy cho H nhưng khi đến điểm hẹn không gặp H nên không hoàn thành việc giao dịch chứ không thừa nhận việc bán ma túy cho H tại nhà như trên.

Trên cơ sở đấu tranh, Đồn Biên phòng Mũi Né xác định nguồn gốc ma túy mà H vừa sử dụng là từ Nguyễn Ngọc T cung cấp nên tổ chức mai phục để bắt giữ. Đến 10 giờ 30 phút cùng ngày, khi T đang chia nhỏ số ma túy đá trong phòng trọ mục đích sử dụng và bán cho các con nghiện thì bị Đồn biên phòng Mũi Né phối hợp với Công an phường Mũi Né, thành phố Phan Thiết phát hiện bắt quả tang và thu giữ các tang vật gồm:

- Thu giữ trên nền nhà trong phòng trọ:

+ 02 gói nylon được hàn kín hai đầu bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (được ký hiệu là M1 khi giám định);

+ 01 gói nylon được hàn kín một đầu còn đầu kia bị rách bên trong có chưa chất tinh thể màu trắng dạng nén (được ký hiệu là M2 khi giám định);

- Thu giữ cạnh chân T ngồi và trong túi quần của T 48 gói nylon nhỏ được hàn kín hai đầu bên trong có chưa các chất tinh thể màu trắng dạng nén (được ký hiệu là M3 khi giám định);

- Thu giữ cạnh chân của đối tượng T 01 gói nylon nhỏ được hàn kín bên trong có chứa tinh thể rắn màu xanh (được ký hiệu là M4 khi giám định).

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s màu trắng số Imei: 353267074744093, số Seri: C75QCCB6GRY6.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 130 màu đen V100011.

- 01 bộ dụng cụ dùng để hút ma túy thu trên sàn nhà trong phòng ngủ.

- 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda loại Winner màu đen cam, biển số 86C1-66707, số khung: RLHKC2607GY072327, số máy: KC26E110731;

- 01 chiếc xe mô tô loại Amici màu trắng, biển số 86B3 – 483.76, số khung: XWSF813010B1001373, số máy: 1520M11102840.

Tại bản kết luận giám định số 34 ngày 10/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận đã kết luận:

Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 1,7301 gam là Methamphetamine;

Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 3,5761 gam là Methamphetamine; Mẫu M3 gửi giám định có khối lượng 4,9268 gam là Methamphetamine;

Mẫu M4 gửi giám định có khối lượng 0,0956 gam là MDMA (MDMA là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT 27, ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ).

Tổng cộng T tàng trữ nhằm mục đích mua bán 10,3286 gam là Methamphetamine và MDMA.

Tại bản cáo trạng số 88/CT-VKS ngày 30 tháng 5 năm 2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận đã truy tố Nguyễn Ngọc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 02 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 02 Điều 251; điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo T mức án từ 7 năm 06 tháng đến 8 năm 06 tháng tù.

Xử lý vật chứng: mẫu vật còn lại sau giám định 01 phong bì niêm phong số 34 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 bộ dụng cụ dùng để hút ma túy là vật chứng thuộc loại nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy, đối với 01 diện thoại di động hiệu NOKIA 130 màu đen V100011 là phương tiện phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s màu trắng số Imei: 353267074744093, số Seri: C75QCCB6GRY6: quá trình điều tra xác định đây là tài sản cá nhân của T không liên quan đến vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phan Thiết đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc điện thoại trên cho T là đúng theo quy định pháp luật.

Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda loại Winner màu đen cam, biển số 86C1-667.07, số khung: RLHKC2607GY072327, số máy: KC26E110731 và 01 chiếc xe mô tô loại Amici màu trắng, biển số 86B3-483.76, số khung: XWSF813010B1001373, số máy: 1520M11102840. Hiện nay chưa xác định được chủ sở hữu của chiếc xe mô tô trên. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết tiếp tục tạm giữ để xác minh làm rõ sau là có cơ sở.

Trần Phong H mua ma tuý của T sử dụng nhưng không xác định được định lượng ma tuý, ngoài ra H chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và cũng chưa bị kết án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý nên không có căn cứ xử lý H về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Đối với đối tượng tên X, người đã bán ma túy cho T do không xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xử lý.

Bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về lời luận tội của Viện kiểm sát đồng thời thừa nhận tòan bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết.

Bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án thấp để sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là đầy đủ và tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa, đủ cơ sở để kết luận:

Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 07/01/2019, tại phòng trọ thuộc khu phố 01, phường Hàm Tiến, thành phố Phan Thiết Nguyễn Ngọc T đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 10,233 gam là Methamphetamine và 0,0956 gam là MDMA. Tổng là: 10,3286 gam là Methamphetamine và MDMA với mục đích bán lại cho các con nghiện kiếm lời thì bị đồn biên phòng Mũi Né phối hợp với Công an phường Mũi Né bắt quả tang.

Xét thấy, bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trật tự an toàn xã hội đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp định khung hình phạt Mua bán trái phép chất ma túy có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cáo trạng viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cho thấy, bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người và cộng đồng xã hội, bị cáo cũng nhận thức được Methamphetamine và chất MDMA là một trong những loại ma túy gây nghiện, nhà nước nghiêm cấm và nghiêm khắc xử lý đối với mọi hành vi mua bán, vận chuyển, tàng trữ… chất ma túy trái phép.

Bị cáo biết rõ ma túy là một trong những căn nguyên làm phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác cho xã hội nhưng bị cáo xem thường pháp luật, bất chấp hậu quả đã thực hiện hành vi mua ma túy về để bán lại cho các con nghiện kiếm lời. Hành vi của bị cáo nguy hiểm cao cho xã hội nên cần xử lý bằng một mức án nghiêm khắc không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các qui tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới. Ngoài ra, mức hình phạt đối với bị cáo còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm chung.

[3] Xét về nhân thân: bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[4] Về tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo là có căn cứ và với mức án mà Kiểm sát viên đề nghị là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Trên cơ sở cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự và xem xét nhân thân của bị cáo, xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định là cần thiết.

[5] Về xử lý vật chứng: mẫu vật còn lại sau giám định 01 phong bì niêm phong số 34 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 bộ dụng cụ dùng để hút ma túy là vật chứng thuộc loại nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy, đối với 01 diện thoại di động hiệu NOKIA 130 màu đen V100011 là phương tiện phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s màu trắng số Imei: 353267074744093, số Seri: C75QCCB6GRY6: quá trình điều tra xác định đây là tài sản cá nhân của T không liên quan đến vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phan Thiết đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc điện thoại trên cho T là đúng theo quy định pháp luật.

Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda loại Winner màu đen cam, biển số 86C1-667.07, số khung: RLHKC2607GY072327, số máy: KC26E110731 và 01 chiếc xe mô tô loại Amici màu trắng, biển số 86B3- 483.76, số khung: XWSF813010B1001373, số máy: 1520M11102840. Hiện nay chưa xác định được chủ sở hữu của chiếc xe mô tô trên. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết tiếp tục tạm giữ để xác minh làm rõ sau là có cơ sở.

Trần Phong H mua ma tuý của T sử dụng nhưng không xác định được định lượng ma tuý, ngoài ra H chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và cũng chưa bị kết án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý nên không có căn cứ xử lý H về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Đối với đối tượng tên X, người đã bán ma túy cho T do không xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xử lý.

[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, khoản 02 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

*Căn cứ: Điểm i khoản 02 Điều 251; điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự.

*Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội “Mua bán trái phép chất trái phép chất ma túy”.

*Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc T 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 07/01/2019.

*Biện pháp tư pháp:

+ Áp dụng: tại điểm a, c khoản 01 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 02 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định là 01 phong bì niêm phong số 34 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 bộ dụng cụ dùng để hút ma túy vật chứng thuộc loại nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu NOKIA 130 màu đen V100011.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 116 ngày 31/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết).

*Về án phí: áp dụng Điều 135, khoản 02 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết.

Bị cáo Nguyễn Ngọc T phải nộp 200.000ñ (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo bản án của bị cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (03/7/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

586
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2019/HSST ngày 03/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:70/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về