Bản án 70/2019/HNGĐ-ST ngày 16/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 70/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 124/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 64/2019/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Hồng H, sinh năm 1992; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 7, xã H, huyện T, thành phố H; chỗ ở hiện nay: Thôn 2, xã Đông Sơn, huyện T, thành phố H; có mặt.

- Bị đơn: Anh Trịnh Văn Đ, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn 7, xã H, huyện T, thành phố H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 18 tháng 02 năm 2019, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Vũ Thị Hồng H trình bày:

Chị kết hôn với anh Trịnh Văn Đ vào năm 2011 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, thành phố H ngày 21 tháng 7 năm 2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống với nhau tại nhà bố mẹ đẻ anh Trịnh Văn Đ tại thôn 7, xã H, huyện T, thành phố H. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Trịnh Văn Đ không chịu khó lao động làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình, vợ con và có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác. Chị và gia đình đã nhiều lần khuyên giải nhưng anh Trịnh Văn Đ vẫn không thay đổi nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn 2, xã Đông Sơn, huyện T, thành phố H sống từ tháng 12 năm 2018 và vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị Vũ Thị Hồng H khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Trịnh Văn Đ không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trịnh Văn Đ.

Về con chung: Chị Vũ Thị Hồng H trình bày vợ chồng có 02 con chung tênTrịnh L, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2012 và Trịnh K, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2016. Khi ly hôn chị yêu cầu Tòa án giải quyết giao hai con chung tên Trịnh L, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2012 và Trịnh K, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2016 cho anh Trịnh Văn Đ được trực tiếp nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi conchung: Chị Vũ Thị Hồng H sẽ có nghĩa cấp dưỡng nuôi chung mỗi tháng 1.000.000 đồng cho con Trịnh L và 1.000.000 đồng cho con Trịnh K cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tại đơn đề nghị ngày 09 tháng 5 năm 2019 và tại phiên tòa chị Vũ Thị Hồng H yêu cầu Tòa án giải quyết giao con chung tên Trịnh K, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2016 cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, còn giao con chung tên Trịnh L, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2012 cho anh Trịnh Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Vũ Thị Hồng H không yêu cầu anh Trịnh Văn Đ cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay chị đang sinh sống cùng bố mẹ đẻ tại thôn 2, xã Đông Sơn, huyện T, thành phố H và làm công nhân của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Nam Thuận với mức thu nhập trung bình một tháng là 7.000.000 đồng.

Về tài sản chung: Chị Vũ Thị Hồng H trình bày vợ chồng chị không có tài sản chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 28 tháng 3 năm 2019 và biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 28 tháng 3 năm 2019 bị đơn là anh Trịnh Văn Đ trình bày: Anh kết hôn với chị Vũ Thị Hồng H vào năm 2011 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, thành phố H. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại nhà bố mẹ đẻ anh tại thôn 7, xã H, huyện T, thành phố H. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh có vay tiền hộ bạn dẫn đến việc vay nợ nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh và chị Vũ Thị Hồng H đã được bố mẹ anh khuyên giải nhưng không có kết quả. Chị Vũ Thị Hồng H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã Đông Sơn, huyện T, thành phố H sống từ tháng 12 năm 2018 và vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó đến nay. Nay chị Vũ Thị Hồng H yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn anh, quan điểm của anh mong muốn Tòa án tiến hành hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con chung. Trường hợp chị Vũ Thị Hồng H kiên quyết xin ly hôn thì anh đề nghị Tòa án căn cứ quy định pháp luật để giải quyết.

Về con chung: Anh Trịnh Văn Đ trình bày vợ chồng có 02 con chung tên Trịnh L, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2012 và Trịnh K, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2016. Hiện nay chị Vũ Thị Hồng H đang trực tiếp nuôi con chung tên Trịnh K, còn anh đang trực tiếp nuôi con chung tên Trịnh L. Trường hợp vợ chồng ly hôn, anh đề nghị Tòa án giải quyết giao hai con chung tên Trịnh L, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2012 và Trịnh K, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2016 cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Trịnh Văn Đ không yêu cầu chị Vũ Thị Hồng H cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay anh đang làm xây dựng cùng với bố đẻ với mức thu nhập trung bình một ngày là 300.000 đồng.

Về tài sản chung: Anh Trịnh Văn Đ trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố H phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và ý kiến về việc giải quyết vụ án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn là chị Vũ Thị Hồng H trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Trịnh Văn Đ chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Vũ Thị Hồng H. Về hôn nhân: Cho chị Vũ Thị Hồng H được ly hôn anh Trịnh Văn Đ. Về con chung: Giao con chung tên Trịnh L, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2012 cho anh Trịnh Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật, giao con chung tên Trịnh K, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2016 cho chị Vũ Thị Hồng H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung và vay nợ chung không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị Vũ Thị Hồng H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn là anh Trịnh Văn Đ đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là anh Trịnh Văn Đ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thị Hồng H và anh Trịnh Văn Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, thành phố H vào ngày 21 tháng 7 năm 2011 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình vợ chồng chị Vũ Thị Hồng H và anh Trịnh Văn Đ chung sống hoà thuận hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị Vũ Thị Hồng H trình bày do anh Trịnh Văn Đ không chịu khó lao động làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình, vợ con và có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác. Nay chị Vũ Thị Hồng H khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Trịnh Văn Đ không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trịnh Văn Đ. Bị đơn là anh Trịnh Văn Đ thừa nhận quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh vay tiền hộ bạn dẫn đến việc vay nợ nên vợ chồng xảy ra cãi nhau nhưng anh đề nghị Tòa án tiến hành hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con chung. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Vũ Thị Hồng H và anh Trịnh Văn Đ do Trịnh Văn Đ mải chơi, không chịu khó làm ăn và không có trách nhiệm với gia đình, vợ con nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Vũ Thị Hồng H và anh Trịnh Văn Đ đã được gia đình khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Chị Vũ Thị Hồng H và anh Trịnh Văn Đ đã sống ly thân nhau từ tháng 12 năm 2018 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Như vậy thể hiện hôn nhân giữa chị Vũ Thị Hồng H và anh Trịnh Văn Đ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Mặt khác anh Trịnh Văn Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến phiên hòa giải, phiên tòa nhưng anh Trịnh Văn Đ vẫn vắng mặt không có lý do. Như vậy thể hiện anh Trịnh Văn Đ không mong muốn hoà giải để vợ chồng đoàn tụ. Việc anh mong muốn vợ chồng về đoàn tụ chỉ nhằm mục đích gây khó khăn cho chị Vũ Thị Hồng H. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Vũ Thị Hồng H về việc xin ly hôn anh Trịnh Văn Đ, cho chị Vũ Thị Hồng H được ly hôn anh Trịnh Văn Đ.

[3] Về con chung: Chị Vũ Thị Hồng H và anh Trịnh Văn Đ có 02 con chung tên Trịnh L, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2012 và Trịnh K, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2016. Hiện nay anh Trịnh Văn Đ đang trực tiếp 02 nuôi con chung tên Trịnh K và Trịnh L. Khi ly hôn chị Vũ Thị Hồng H yêu cầu Tòa án giải quyết giao con chung tên Trịnh K, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2016 cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, còn giao con chung tên Trịnh L, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2012 cho anh Trịnh Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Trịnh Văn Đ yêu cầu Tòa án giải quyết giao hai con chung tên Trịnh L, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2012 và Trịnh K, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2016 cho anh trực tiếp nuôi dưỡng. Tuy nhiên việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng thì cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Xét chị Vũ Thị Hồng H và anh Trịnh Văn Đ đều có điều kiện và khả năng nuôi con như nhau, con chung tên Trịnh L có nguyện vọng được ở cùng với anh Trịnh Văn Đ, còn con chung tên Trịnh K mới hơn 03 tuổi cần có sự chăm sóc của người mẹ. Vì vậy căn cứ vào Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Vũ Thị Hồng H, giao con chung tên Trịnh K, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2016 cho chị

Vũ Thị Hồng H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật, giao con chung tên Trịnh L, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2012 cho anh Trịnh Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Vũ Thị Hồng H không yêu cầu anh Trịnh Văn Đ cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Trịnh Văn Đ không yêu cầu chị Vũ Thị Hồng H cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Vũ Thị Hồng H và anh Trịnh Văn Đ thống nhất vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và không cho ai vay, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Vũ Thị Hồng H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Cho chị Vũ Thị Hồng H được ly hôn anh Trịnh Văn Đ

2. Về con chung: Giao con chung tên Trịnh K, sinh ngày 15 tháng 02 năm 2016 cho chị Vũ Thị Hồng H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao con chung tên Trịnh L, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2012 cho anh Trịnh Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Vũ Thị Hồng H và anh Trịnh Văn Đ không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết.

3. Về án phí: Chị Vũ Thị Hồng H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000368 ngày 28 tháng 02 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố H. Chị Vũ Thị Hồng H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2019/HNGĐ-ST ngày 16/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:70/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về