TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MINH HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 70/2018/HNGĐ-ST NGÀY 13/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 13 tháng 11 năm 2018, tại Toà án nhân dân huyện Minh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 52/2018/TLST – HNGĐ ngày 13/9/2018 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 568/2018/QĐST- HNGĐ ngày 15/10/2018 của Toà án nhân dân huyện Minh Hoá giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Đinh Thị B
Trú tại: Thôn Lâm H, xã Hóa H, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình - có mặt.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thành Q
Trú tại: Thôn Lâm H, xã Hóa H, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình- vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn ghi ngày 12/9/2018 và tại bản tự khai ghi ngày 13/9/2018 của nguyên đơn Đinh Thị B trình bày: giữa chị B và anh Q đã đăng ký kết hôn ngày 28/02/2011 tại Ủy ban nhân dân xã Trung H, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng thương yêu hòa thuận. Sau một thời gian phát sinh mâu thuẫn, sống không hợp nhau, hai bên gia đình đã hòa giải nhiều lần nhưng không thể hàn gắn được. Vì vậy chị Biên làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Q.
Con chung của vợ chồng: Chị B và anh Q có với nhau 01 con chung là cháu Nguyễn Yến Linh N, sinh ngày 02/4/2011, nguyện vọng của chị Biên nếu ly hôn xin được nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng500.000đ. Tài sản chung : Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về vay chung: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyếtTòa án nhân dân huyện Minh Hóa đã thụ lý vụ kiện theo yêu cầu của Chị Đinh Thị B
Về phía bị đơn Nguyễn Thành Q, sau khi thụ lý vụ án Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã triệu tập anh Q nhiều lần nhưng anh Q cố tình không đến Toà án để tham gia các phiên hoà giải. Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã đến tại cơ sở và xác minh thì được biết hiện nay anh Q đang làm ăn xa nhưng vẫn biết có giấy triệu tập của Tòa án nhưng cố tình không hợp tác với Tòa án để giải quyết vụ án. Tòa án đã niêm yết tất cả các giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử và thông báo mở lại phiên tòa tại Ủy ban nhân dân xã nơi anh Q cư trú nhưng anh Q vẫn không đến tòa án để giải quyết vụ án.
Ngày 31/ 10/2018, Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm ly hôn đối với chị B và anh Q, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng anh Q vắng mặt nên đã hoãn phiên toà vì lý do vắng mặt bị đơn. Tại phiên tòa hôm nay anh Q vẫn vắng mặt không có lý do.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Chị Đinh Thị B và anh Nguyễn Thành Q đã đăng ký kết hôn vào ngày 28/02/2011 tại Ủy ban nhân dân xã Trung Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, nên được coi đây là cuộc hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống 2 vợ chồng đã có với nhau 01 con chung. Đáng lẽ ra anh chị đã có một gia đình hạnh phúc, nhưng chỉ vì những bất đồng quan điểm trong cuộc sống vợ chồng mà giữa anh chị đã xảy ra mẫu thuẫn trầm trọng không thể hoà giải được.
Về phía bị đơn anh Nguyễn Thành Q có hộ khẩu thường trú tại Thôn Lâm H, xã Hóa H, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình, nhưng cố tình dấu địa chỉ mặc dù đã được Toà án tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt tại Toà án. Ngày 31/ 10/2018, Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm ly hôn đối với chị B và anh Q. Mặc dù đã được Tòa án tống đạt Q định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập hợp lệ nhưng anh Q vẫn vắng mặt, nên đã hoãn phiên toà vì lý do vắng mặt bị đơn. Tại phiên tòa hôm nay anh Q đã được toà án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Toà án tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Xét thấy mâu thuẩn của hai vợ chồng là rất trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên xử cho vợ chồng được ly hôn là đúng quy định tại các điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.
[2] Về con chung: Xét thấy nguyện vọng của chị B là hợp lý vì con hiện nay đang ở cùng chị B và cháu N có nguyện vọng xin được ở với mẹ khi bố mẹ ly hôn nên xử giao cho chị B trực tiếp chăm sóc con chung là thỏa đáng và yêu cầu anh Q có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con một tháng 500.000đ là đúng với quy định tại các điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình.
[3] Tài sản chung : Không có nên miễn xét
[4] Về vay chung: Không có nên miễn xét.
[5] Về án phí: Chị Đinh Thị B phải chịu 300.000đ ( Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp ly hôn nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai số: 0004055 ngày 13/9/2018 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình chị B đã nộp đủ án phí. Anh Q phải chịu300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo đình kỳ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị B được ly hôn với anh Nguyễn Thành Q
2. Về con chung: Giao chị Đinh Thị B trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu
Nguyễn Yến Linh N, sinh ngày 02/4/2011, anh Q có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 500.000 đ (Năm trăm ngàn đồng). Thời gian nộp tiền cấp dưỡng kể từ tháng 11/2018 cho đến khi cháu N tròn 18 tuổi. Hai bên có quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở thực hiện quyền này. Khi cần thiết vì quyền lợi của con một trong hai bên có quyền làm đơn yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về án phí: Chị Đinh Thị B phải chịu 300.000đ ( Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp ly hôn nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai số: 0004055 ngày 13/9/2018 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình chị B đã nộp đủ án phí. Anh Q phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo đình kỳ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Trường hợp bên phải thi hành án do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán quy định tại Khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự mà không có thỏa thuận lãi suất thì thực theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự được xác định mức lãi suất quá hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự để trả cho bên được thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành.
4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (13/11/2018), bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án tại trụ sở UBND xã Hóa H, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình để yêu cầu Tòa án nhân dântỉnh Quảng Bình xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Bản án 70/2018/HNGĐ-ST ngày 13/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 70/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Minh Hóa - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 13/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về