Bản án 70/2017/HNGĐ-ST ngày 28/11/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUỴÊN T – TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 70/2017/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28/11/2017, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Triệu Sơn,tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án: “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình” thụ lý số 269/2017/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 10 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/11/2017, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị V - Sinh năm: 1986, có mặt

Bị đơn:Anh Nguyễn Văn H - Sinh năm: 1983, vắng mặt

Đều trú tại: Thôn M, xã K, huyện T, tỉnh Thanh Hóa,

NỘI DUNG VỤ ÁN

*> Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn chị Vũ Thị V trình bày: Chị V và anh Nguyễn Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã K,  huyện T, tỉnh Thanh Hóa ngày 13/6/2005. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H không chịu làm ăn, hay tụ tập bạn bè uống rượu, đánh bài, chị động viên khuyên can anh H không nghe mà còn chửi bới, đánh đập chị, mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình, đoàn thể địa phương hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả mà ngày càng trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2017 đến nay không ai quan tâm đến ai, cuộc sống của ai người đó tự lo, nay chị V xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung cháu Nguyễn Văn Đ sinh ngày 14/11/2006 và cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 30/4/2012, chị đề nghị được trực tiếp nuôi cả hai cháu, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, nếu anh H không đồng ý thì mỗi người nuôi một con, chị xin nuôi cháu T, anh H nuôi cháu Đ, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.

Về tài sản và công nợ: Chị V không yêu cầu Tòa án giải quyết

*> Tại bản tự khai ngày 10/10/2017 và các biên bản tố tụng do Tòa án tiến hành bị đơn anh Nguyễn Văn H trình bày:

Về hôn nhân: Cơ sở kết hôn anh thống nhất như chị V trình bày còn về nguyên nhân mâu thuẫn phát sinh từ tháng 02/2017, do chị V đi làm ăn xa không quan tâm đến gia đình và con cái dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn, anh và gia đình đã khuyên chị V nghĩ việc công ty về nhà chăm lo gia đình, chị V không nghe, nay chị V xin ly hôn bản thân anh và các con muốn vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con cái, anh chỉ đồng ý ly hôn khi chị V để anh trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con, quá trình hòa giải anh xác định chị V cương quyết ly hôn anh đồng ý ly hôn chị V.

Về con chung: Anh thống nhất vợ chồng có hai con chung như chị V trình bày, nay vợ chồng ly hôn anh xin nuôi cả hai con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ, anh thống nhất ý kiến như chị V trình bày, vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, tại phiên tòa hôm nay anh H có đơn xin xử án vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sư, tòa án tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về hôn nhân: Chị V và anh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 13/6/2005 tại UBND xã M, huyện T, tỉnh Thanh Hóa, nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống hòa thuận hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai, quá trình giải quyết vụ án, anh H xin đoàn tụ nhưng không có biện pháp và thiện chí đoàn tụ, qúa trình hòa giải anh H trình bày nếu chị V cương quyết ly hôn, anh đồng ý ly hôn, tại phiên tòa chị V vẫn cương quyết đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H, điều này chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng cuộc sống chung không có hạnh phúc, việc chị V xin ly hôn anh H là có căn cứ phù hợp với tình trạng hôn nhân của vợ chồng, phù hợp quy định Luật hôn nhân và gia đình, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị V, xử cho chị Vân được ly hôn anh H.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung, Nguyễn Văn Đ sinh ngày 14/11/2006 và cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 30/4/2012, quá trình hòa giải tại biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa thành ngày 26/10/2017 các đương sự thống nhất chị V trực tiếp nuôi cháu Đ, anh H nuôi cháu T, nhưng trong thời hạn 07 ngày, chị V thay đổi ý kiến là yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu T, tại phiên tòa chị V giữ nguyên quan điểm yêu cầu được nuôi cháu T.

Xét thấy vợ chồng có hai con chung nên giao mỗi người nuôi 1 con là phù hợp, nếu giao cho một bên nuôi dưỡng cả hai con là khó khăn vì cả hai bên đều không có việc làm và thu nhập ổn định, cháu Đ sinh năm 2006 đã trên 10 tuổi, bản thân tự lập được một số sinh hoạt cá nhân, nguyện vọng của cháu xin ở với bố nên giao cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, cháu T mới hơn 5 tuổi cần sự chăm sóc, bảo ban của mẹ hơn nghĩ nên giao chị V trực tiếp nuôi dưỡng sẽ tốt hơn, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào, vì lơi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con, cấp dưỡng nuôi con, các bên có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở

[4] Về tài sản và nợ:  Các đương sự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xém xét.

[5] Về án phí: Chị V phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật

Vì các lý lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng  khoản 3 Điều 144, khoản  4 Điều 147, Bộ luật tố tụng;  Khoản 1 Điều 56, Điều 57, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Về hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị V được ly hôn anh Nguyễn Văn H

Về con chung:  Giao chị Vũ Thị V trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 30/4/2012, giao anh Nguyễn Văn H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 14/11/2006. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi cho bên nào.Vì lợi ích của con,khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con và cấp dưỡng nuôi con, các bên có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Về tài sản, nợ : Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, không yêu cầu Tào án giải quyết

Về án phí: Chị Vũ Thị V phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị V đã nộp là 300.000đ. theo biên lai thu tiền số AA/2015/0002990 ngày 28/9/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, Thanh Hóa,chị V đã nộp đủ án phí.

Quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2017/HNGĐ-ST ngày 28/11/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:70/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về