Bản án 694/2018/HNGĐ-PT ngày 19/07/2018 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 694/2018/HNGĐ-PT NGÀY 19/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 19 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 46/2018/TLPT-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2018 về việc tranh chấp “Ly hôn”.

Do Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 39/2018/HNGĐ-ST ngày 28 tháng 3 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2882/2018/QĐ-PT ngày 27 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng P, sinh năm 1963; địa chỉ: Số B Ấp C, xã D, huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

- Bị đơn: Bà Lê Thị Minh S, sinh năm 1963; địa chỉ: Số E Ấp C, xã D, huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

- Người kháng cáo: Bị đơn bà Lê Thị Minh S.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các bản tự khai, nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng P trình bày như sau:

Ông và bà Lê Thị Minh S tự nguyện chung sống từ năm 1982, đến ngày 15 tháng 11 năm 2004 thì đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 138 quyển số 2004 do Ủy ban nhân dân xã D, huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh cấp. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2000, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bà S không chăm lo cho gia đình, tính cách hai người trái ngược nhau, không còn tôn trọng và chia sẻ với nhau trong cuộc sống. Ông và bà S đã sống ly thân từ năm 2012 đến nay. Do cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn và không thể hàn gắn đoàn tụ, ông Nguyễn Hoàng P khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Lê Thị Minh S.

Về con chung: Ông và bà Lê Thị Minh S có 04 người con chung là Nguyễn Lê Phương D, sinh năm 1983; Nguyễn Lê Hoàng P, sinh năm 1985; Nguyễn Lê Phương T, sinh năm 1990; Nguyễn Lê Hoàng P, sinh năm 1993 đều đã trưởng thành.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và các biên bản hòa giải, bị đơn bà Lê Thị Minh S trình bày như sau:

Bà xác định nội dung ông Nguyễn Hoàng P trình bày về quá trình hai người chung sống từ năm 1981 đến năm 2004 đăng ký kết hôn là đúng. Bà cho rằng ngay từ khi vợ chồng bà chung sống với nhau ông P đã có hành vi đánh đập bà, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân chủ yếu là do ông P không chung thủy. Mâu thuẫn vợ chồng càng trầm trọng khi ông P dọn ra khỏi nhà để chung sống với người phụ nữ khác. Bà không có chứng cứ chứng minh thời điểm và việc ông P ngoại tình. Bà và ông P đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2017 đến nay. Tuy nhiên, do đã chung sống hơn 30 năm, các con chung đều đã trưởng thành và có gia đình riêng, bà không đồng ý ly hôn với ông P để giữ thể diện cho các con. Trước đây bà và ông P có tài sản chung là căn nhà số Số B Ấp C, xã D, huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh đã bán cho người khác, số tiền có được dùng để mua nhà cho con trai và còn lại 3.500.000.000 đồng do ông P giữ. Bà chỉ đồng ý ly hôn với ông P nếu ông P giao lại cho bà số tiền 500.000.000 đồng.

Về con chung: Bà và ông Nguyễn Hoàng P có 04 người con chung là Nguyễn Lê Phương D, sinh năm 1983; Nguyễn Lê Hoàng P, sinh năm 1985; Nguyễn Lê Phương T, sinh năm 1990; Nguyễn Lê Hoàng P, sinh năm 1993 đều đã trưởng thành.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 39/2018/HNGĐ-ST ngày 28 tháng 3 năm 2018, Tòa án nhân dân huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 91, Khoản 4 Điều 147, Điều 203, Điều 238, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các điều 9, 19, 56 và 57 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng P:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Hoàng P được ly hôn bà Lê Thị Minh S. Giấy chứng nhận kết hôn số 138 quyển số 2004 do Ủy ban nhân dân xã D, huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 15 tháng 11 năm 2004 không còn giá trị pháp lý.

Về con chung: Ông Nguyễn Hoàng P và bà Lê Thị Minh S có 04 người con chung là Nguyễn Lê Phương D, sinh năm 1983; Nguyễn Lê Hoàng P, sinh năm 1985; Nguyễn Lê Phương T, sinh năm 1990; Nguyễn Lê Hoàng P, sinh năm 1993 đều đã trưởng thành.

Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13 tháng 4 năm 2018, bị đơn bà Lê Thị Minh S có đơn kháng không đồng ý với bản án sơ thẩm với lí do bà không muốn ly hôn, Tòa sơ thẩm xét xử mà không xem xét một cách toàn diện, khách quan nội dung sự việc.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn bà Lê Thị Minh S giữ nguyên yêu cầu, xác định kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Bà không đồng ý ly hôn với ông Nguyễn Hoàng P vì hai người đã chung sống với nhau trong thời gian dài, các con hiện đã lớn và lập gia đình riêng, việc ly hôn sẽ làm ảnh hưởng không tốt đến hình ảnh của gia đình bà. Hơn nữa, ông P không chung thủy, mặc dù chưa ly hôn với bà nhưng ông P đã chung sống với người phụ nữ khác. Bà đã làm đơn tố cáo ông P đến cơ quan có thẩm quyền để xử lý hành vi vi phạm pháp luật của ông P. Bà không còn tình cảm gì đối với ông P nhưng chỉ đồng ý ly hôn nếu ông P trả cho bà số tiền 500.000.000đồng.

Nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng P không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị Minh S vì hai người đã mâu thuẫn trầm trọng trong thời gian dài và thực tế không còn chung sống, đề nghị giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm giải quyết cho ông được ly hôn với bà S.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm có nêu: Thẩm phán, các thành viên Hội đồng xét xử, các đương sự trong vụ án đã thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Đề xuất đường lối giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến: Căn cứ tình trạng hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn đã ở mức độ trầm trọng, thời gian sống ly thân kéo dài chứng tỏ giữa hai người đã không còn khả năng hàn gắn, đoàn tụ; bà S cho rằng ông P không chung thủy là đã không còn niềm tin với chồng, do đó Tòa sơ thẩm giải quyết cho ly hôn là có cơ sở. Bà S kháng cáo yêu cầu không giải quyết cho ly hôn, đưa ra điều kiện ly hôn ông P phải giao cho bà số tiền 500.000.000 đồng không phải là lí do chính đáng để xem xét chấp nhận yêu cầu của bà S, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

I. Về thủ tục tố tụng:

Đơn kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị Minh S làm trong thời hạn luật định phù hợp với các quy định tại Điều 272, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí kháng cáo theo quy định là hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

II. Về nội dung:

Xem xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị Minh S, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

[1] Về quan hệ hôn nhân:

Ông Nguyễn Hoàng P và bà Lê Thị Minh S tự nguyện chung sống từ năm 1981, đến ngày 15 tháng 11 năm 2004 thì đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 138 quyển số 2004 do Ủy ban nhân dân xã D, huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh cấp, được xác định là hôn nhân hợp pháp.

Do mâu thuẫn vợ chồng dẫn đến cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, ông P khởi kiện yêu cầu được ly hôn bà Lê Thị Minh S. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày của các đương sự, Tòa án nhân dân huyện A nhận định giữa nguyên và bị đơn không còn khả năng hàn gắn đoàn tụ gia đình, mục đích hôn nhân không đạt được nên đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giải quyết cho ông Nguyễn Hoàng P được ly hôn bà Lê Thị Minh S.

Không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm, bị đơn bà Lê Thị Minh S kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì bà không đồng ý ly hôn.

Xét, quá trình chung sống theo lời trình bày của nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng P thì vợ chồng không hạnh phúc do có nhiều mâu thuẫn, hai người không có sự hòa hợp. Bà S không tin tưởng ông, không chăm lo gì cho gia đình. Bị đơn bà Lê Thị Minh S thừa nhận có mâu thuẫn và vợ chồng không còn thực tế chung sống từ tháng 5 năm 2017, ông P không chung thủy. Bà S kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với lí do nếu giải quyết cho ly hôn sẽ làm ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình bà và gia đình riêng của các con. Bà S chỉ đồng ý ly hôn nếu ông P thanh toán cho bà số tiền 500.000.000 đồng mà theo bà đó là tiền có được do bán tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, bị đơn kháng cáo nhưng không đưa ra được phương án để hòa giải đoàn tụ; bà S không đồng ý ly hôn cũng không xuất phát từ việc còn tình cảm với chồng hay mong muốn cùng ông P tiếp tục xây dựng gia đình hạnh phúc. Do đó, không có cơ sở để xem xét chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về phần này như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa.

[2] Về con chung: Ông Nguyễn Hoàng P và bà Lê Thị Minh S có 04 người con chung là Nguyễn Lê Phương D, sinh năm 1983; Nguyễn Lê Hoàng P, sinh năm 1985; Nguyễn Lê Phương T, sinh năm 1990; Nguyễn Lê Hoàng P, sinh năm 1993 đều đã trưởng thành.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn bà Lê Thị Minh S phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 148, Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Áp dụng Luật Thi hành án dân sự;

I. Chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ của bị đơn bà Lê Thị Minh S vì làm trong thời hạn luật định.

II. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị Minh S, giữ nguyên quyết định của Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 39/2018/HNGĐ-ST ngày 28 tháng 3 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh như sau:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng P:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Hoàng P được ly hôn bà Lê Thị Minh S. Giấy chứng nhận kết hôn số 138 quyển số 2004 do Ủy ban nhân dân xã D, huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 15 tháng 11 năm 2004 không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: Ông Nguyễn Hoàng P và bà Lê Thị Minh S có 04 con chung là Nguyễn Lê Phương D, sinh năm 1983; Nguyễn Lê Hoàng P, sinh năm 1985; Nguyễn Lê Phương T, sinh năm 1990; Nguyễn Lê Hoàng P, sinh năm 1993 đều đã trưởng thành.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng P phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0031472 ngày 06 tháng 02 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh, đương sự đã thi hành xong án phí sơ thẩm về phần này.

III. Về án phí dân sự phúc thẩm:

Bị đơn bà Lê Thị Minh S phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0031881 ngày 23 tháng 4 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh, đương sự đã thi hành xong án phí phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được áp dụng theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 694/2018/HNGĐ-PT ngày 19/07/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:694/2018/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về