Bản án 69/2021/HSST ngày 03/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 69/2021/HSST NGÀY 03/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 61/2021/HSST ngày 20 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2021 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 07/2021/TB-TA ngày 12 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Đặng Văn T, sinh ngày 09 tháng 9 năm 1969 tại Th; Nơi cư trú: thôn Đ 1, xã, thành phố Th, tỉnh Th; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn Đ và bà Nguyễn Thị C (Đều đã chết, ông Đ được Nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất); Có vợ là Nguyễn Thị H (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 1993; Tiền án; tiền sự: Không; Nhân thân: - Năm 2005 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V khởi tố bị can về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 17/5/2006, Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã ra Quyết định đình chỉ điều tra vụ án với bị can; - Tham gia nghĩa vụ quân sự từ năm 1988 đến năm 1991 xuất ngũ về địa phương; - Bố đẻ bị cáo được Nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/01/2021 đến ngày 13/01/2021 chuyển tạm giam đến nay; Có mặt.

* Người chứng kiến:

- Anh Bùi Văn B, sinh năm 1972; Trú tại: thôn T, xã P, thành phố Th, tỉnh Th; Vắng mặt

- Ông Bùi Xuân V, sinh năm 1960; Trú tại: thôn Đ 1, xã P, thành phố Th, tỉnh Th; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 10/01/2021, Đặng Văn T đi bộ từ nhà đến khu vực đường K, thuộc thôn Đ 1, xã P, thành phố Th mục đích mua ma túy về sử dụng. Tại đây, T gặp và mua của một người nam giới khoảng 35 tuổi (không biết tên, địa chỉ) 07 gói ma túy với giá 1000.000 đồng, T cất ma túy trong túi quần hậu bên trái đang mặc đi tìm chỗ sử dụng. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, T đang đứng tại khu vực đường K, thuộc thôn Đ 1, xã P, thành phố Th thì bị tổ công tác của Công an xã P, thành phố Th phát hiện yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Trước sự chứng kiến của anh Bùi Văn B và ông Bùi Xuân V, T tự giác lấy từ túi quần hậu trái đang mặc giao nộp cho tổ công tác 07 gói bằng giấy tráng kim, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, T khai là herôin của T mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã niêm phong số ma túy vào phong bì dán kín, yêu cầu T và mời 02 người chứng kiến về trụ sở Công an xã P, thành phố Th làm việc. Qua kiểm tra thu tại túi quần trái của T đang mặc 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng và số tiền 840.000 đồng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, phong vật chứng và quản lý tài sản.

Tại bản kết luận giám định số 09/KLGĐMT-PC09 ngày 11/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,6580 gam”.

Tại bản Cáo trạng số 66/CT-VKSTPTB ngày 20 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố Đặng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận Kiểm sát viên luận tội bị cáo giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Đặng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Điều 50 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt Đặng Văn T mức án từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị: Tịch thu số ma túy trong phong bì niêm phong số 09/KLGĐMT mẫu vật hoàn lại sau giám định để tiêu hủy; Trả lại cho bị cáo Đặng Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia và số tiền 840.000 đồng, nhưng quản lý để đảm bảo thi hành án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa Đặng Văn T khai và thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã mô tả và không có ý kiến tranh luận với luận tội của kiểm sát viên.

Khi trình bày lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về căn cứ buộc tội đối với bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến là anh Bùi Văn Bình và ông Bùi Xuân Vĩnh được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng và bản kết luận giám định số 09/KLGĐMT-PC09 ngày 11/01/2021 cùng các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ ngày 10/01/2021, tại khu vực đường K, thuộc thôn Đ 1, xã P, thành phố Th, Đặng Văn T đã tàng trữ trái phép 0,6580 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân.

[3] Bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình, hiểu rõ tác hại của ma túy và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi đó của Đặng Văn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố là có căn cứ. Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a)....

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quy định quản lý của Nhà nước về chất gây nghiện, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội, đi ngược lại công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy của Đảng, Nhà nước ta nên tính chất vụ án là nghiêm trọng, cần xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[5] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo Điều 52 Bộ luật Hình sự. Năm 2005, bị cáo bị Cơ quan điều tra Công an huyện Vũ Thu khởi tố về hành vi trộm cắp tài sản, tuy sau đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũ Thu đã ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án đối với bị can, nhưng được coi bị cáo là người có nhân thân xấu. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bản thân đã tham gia quân đội và hoàn thành nghĩa vụ quân sự, bố đẻ bị cáo được Nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất nên được áp dụng các tình tiết quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử lên mức án tương xứng với hành vi phạm tội, đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[6] Bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân, không có mục đích kiếm lời, bản thân không có nghề nghiệp ổn định nên xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Bị cáo khai về nguồn gốc ma túy mua của một người nam giới khoảng 35 tuổi nhưng không biết tên, địa chỉ tại khu vực đường K, thuộc thôn Đ 1, xã P, thành phố Th nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo hoàn lại sau giám định là chất thuộc danh mục Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu để tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động Nokia và số tiền 840.000 đồng. Qua điều tra xác định là tài sản của bị cáo không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo là phù hợp.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; khoản 1 Mục I Danh mục án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Vãn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Đặng Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 10/01/2021.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu 0,5506 gam Heroine niêm phong trong phong bì số 09/KLGĐMT (mẫu vật hoàn trả sau giám định) cùng bao gói để tiêu hủy.

Trả lại cho bị cáo Đặng Văn T01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia và số tiền 840.000 đồng.

(Vật chứng và tài sản đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình quản lý có đặc điểm như biên bản giao nhận ngày 20/4/2021).

4. Về án phí: Bị cáo Đặng Văn T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Đặng Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 03/6/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2021/HSST ngày 03/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:69/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về