Bản án 69/2021/HS-PT ngày 08/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 69/2021/HS-PT NGÀY 08/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 15/2021/TLPT-HS ngày 13 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn U, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 56/2020/HS-ST ngày 02/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn U (U Nhỏ), sinh năm 1976; nơi cư trú ấp T, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp không; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M1, sinh năm 1930 (chết) và Trần Thị H1, sinh năm 1932 (chết); vợ và con: không;

Tiền án:

+ Năm 2002 bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 27/HSST ngày 26/11/2002, chấp hành xong ngày 14/01/2005;

+ Năm 2005 bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 30/HSST ngày 02/8/2005. Chấp hành án tại Trại giam K7 tỉnh Kiên Giang. Ngày 18/8/2006 trốn khỏi nơi giam giữ bị bắt và ngày 09/01/2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 04 năm tù về tội “Trốn khỏi nơi giam giữ” và tổng hợp hình phạt của Bản án số 30/HSST ngày 02/8/2005, bị cáo phải chấp hành hình phạt của hai bản án là 05 năm 07 tháng 25 ngày tù theo Bản án số 03/HSST, chấp hành xong ngày 31/01/2012;

+ Năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tổng hợp hình phạt Bản án số 74/HSST ngày 02/7/2013 của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt bị cáo phải chấp hành là 07 năm 06 tháng tù, chấp hành xong ngày 10/6/2020.

- Tiền sự: không.

- Nhân thân:

+ Năm 1996 bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang xử phạt 09 tháng tù về “Chống người thi hành công vụ”, xử phạt cảnh cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 37 ngày 11/10/1996;

+ Ngày 1997 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh An Giang xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân” theo bản án số 42 ngày 23/9/1997;

+ Ngày 25/01/2000 bị Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục 24 tháng, chấp hành xong ngày 31/01/2002;

Tạm giữ ngày 15/7/2020, tạm giam ngày 18/7/2020; Bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp và có mặt tại phiên tòa.

Viện Kiểm sát không kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Văn U, sinh năm 1976, ngụ ấp T, xã B, huyện C, tỉnh An Giang. Vào ngày 14/7/2020 U đón xe khách đi từ An Giang đến thị trấn A, huyện M, do không quen biết ai nên bị can đi lang thang khu vực thị trấn A. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày U đi bộ trên đường Nguyễn Văn Trỗi gần Trung tâm văn hóa thể thao huyện M thuộc khóm 2, thị trấn A thì phát hiện xe mô tô màu xám bạc, nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 66K1-368.27 của anh Trần Văn M, sinh ngày 05/7/2002 đang đậu trước cửa nhà, đầu xe quay hướng vào nhà, trên xe vẫn còn gắn chìa khóa, không người trông coi nên bị can nảy sinh ý định lấy trộm xe. Bị cáo U lén lút đi đến ngồi lên xe, mở khóa, nổ máy điều khiển để chạy đi, lúc này bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1983 là mẹ ruột của anh M nhìn thấy nên truy hô thì bị cáo điều khiển xe chạy ra đường Hùng Vương theo hướng thị trấn A đi xã Mỹ Đông, huyện M, tỉnh Đồng Tháp. Khi nghe bà N truy hô xe bị trộm anh M từ trong nhà sau chạy ra trước cửa nhà, cùng thời điểm này anh Trần Mi C, sinh năm 1988, ngụ khóm 2, thị trấn A ở nhà bên cạnh đang ngồi trước cửa nhà cũng nhìn thấy nên anh Mi C liền lấy xe mô tô điều khiển chở theo anh M rượt đuổi theo U. Khi U điều khiển xe đến trước trụ sở Công an huyện M thì bị té ngã, anh Mi C cùng anh M đến bắt giữ U, cùng chiếc xe vừa trộm được giao cho Công an huyện M lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Khi bị té ngã, xe của anh M hư hỏng một số bộ phận trị giá 1.700.000 đồng, anh M tự nhận xe lại sửa chữa.

Tại Biên bản định giá số 34/BBĐG ngày 29/7/2020 của Hội đồng định giá kết luận: Xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 66K1-368.27, xe đã qua sử dụng giá trị: 10.700.000 đồng, một số bộ phận của xe bị hư hỏng giá trị 1.700.000 đồng.

Về vật chứng, quá trình điều tra thu giữ:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 66K1-368.27;

- Thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn U: 01 áo sơ mi dài tay, sọc caro màu xanh dương, sọc đỏ; 01 quần tây màu đen; 01 điện thoại di động hiệu itel màu đỏ;

Xe mô tô biển số 66K1-368.27 do ông Trần Văn H, sinh năm 1979 ngụ khóm 2, thị trấn A, huyện M, tỉnh Đồng Tháp là cha ruột của anh M đứng tên chủ sở hữu, xe này ông H cho con ruột là anh M quản lý sử dụng nhưng chưa sang tên. Đối với điện thoại di động hiệu itel màu đỏ thu giữ của bị cáo, điện thoại này bị cáo mượn của anh Lư Hoàng T sinh ngày 10/10/2005 ngụ ấp T, xã B, huyện C, tỉnh An Giang là cháu của bị cáo để sử dụng. Xét thấy không cần thiết tạm giữ Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại Trần Văn M xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 66K1-368.27, trả lại điện thoại di động hiệu itel màu đỏ cho anh Lư Hoàng T Về nguyên nhân phạm tội: Bị cáo khai nhận do không có công việc ổn định, không có phương tiện đi lại nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để điều khiển về An Giang.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Trần Văn M đã nhận lại xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 66K1-368.27 và không yêu cầu bồi thường chi phí sửa chửa xe bị hư hỏng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 56/2020/HS-ST ngày 02 tháng 12 năm 2020 đã được sữa chữa, bổ sung ngày 01/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện M đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn U (U Nhỏ) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn U (U Nhỏ) 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 15/7/2020.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định. Ngày 15/12/2020 bị cáo Nguyễn Văn U kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn U giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án: Bị cáo U có nhiều tiền án, có nhân thân xấu được thể hiện bằng rất nhiều bản án. Bị cáo lén lút trộm cắp tài sản của bị hại giá trị tài sản trên 2.000.000 đồng thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 05 năm tù là phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo, đúng quy định pháp luật. Bị cáo kháng cáo phù hợp quy định của pháp luật nhưng tình tiết bị cáo nêu trong đơn và tại phiên tòa không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Tình tiết bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải đã được cấp sơ thẩm xem xét nên đề nghị căn cứ Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ một phần hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo U không tranh luận với Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Lời nói sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ một phần hình phạt tù cho bị cáo để sớm trở về hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định là hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; bản ảnh hiện trường, phương tiện; biên bản khám nghiệm hiện trường; biên bản định giá cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định bị cáo U đã lén lút thực hiện hành vi lấy trộm xe mô tô Yamaha Sirius biển số 66K1-368.27 do ông Trần Văn H đứng tên chủ sở hữu xe, giá trị xe là 10.700.000 đồng. Bị cáo đã có ba tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với tình tiết định khung là tái phạm nguy hiểm. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Xét mức hình phạt 05 năm tù, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo và có đủ thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thật thà khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm phù hợp với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

[4] Bị cáo Nguyễn Văn U phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn U. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2020/HS-ST ngày 02 tháng 12 năm 2020 đã được sữa chữa, bổ sung ngày 01/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện M về hình phạt đối với bị cáo.

2. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn U phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn U 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 15/7/2020.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn U phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2021/HS-PT ngày 08/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:69/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:08/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về