Bản án 69/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 69/2020/HS-ST NGÀY 21/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 21 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 65/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Dường Kim Q; sinh ngày 16 tháng 7 năm 1995 tại huyện H, tỉnh Quảng Ninh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn 1, xã Đ, huyện H, tỉnh Quảng Ninh; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Dao; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Làm ruộng; con ông: Dường Cắm H và bà: Trần Thị K; vợ: Triệu Thị M, sinh năm 1996, con: có 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Không có án tích, không bị xử phạt vi phạm hành chính, không bị xử lý kỷ luật; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Chị Hà Thị S, sinh năm 1981; nơi cư trú: Thôn S, xã X, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 29/9/2020 Dường Kim Q phục vụ vợ Triệu Thị M đang điều trị tại Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Khoảng 13 giờ 10 phút ngày 29/9/2020 Dường Kim Q đi vệ sinh tại nhà vệ sinh nam tầng 02 Khoa Ngoại xong, Dường Kim Q nhìn thấy túi xách màu đen treo trên móc quần áo ở cạnh cửa ra vào phòng vệ sinh, sau khi quan sát không có ai xung quanh Dường Kim Q liền nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bên trong túi xách, Dường Kim Q tiến lại mở túi xách phát hiện bên trong có 02 (hai) điện thoại di động, Dường Kim Q liền dùng tay trái đỡ nắp túi xách lên rồi dùng tay phải lấy 02 (hai) chiếc điện thoại di động ra, Dường Kim Q dùng tay trái cất 01 (một) điện thoại di động màu đen vào túi quần bên trái và dùng tay phải cất 01 (một) điện thoại di động màu xanh vào cạp quần phía trước (đang mặc) rồi đi ra khỏi nhà vệ sinh. Sau khi Dường Kim Q lấy điện thoại xong, Dường Kim Q một mình đi xe mô tô biển kiểm soát 14L1 - 098.02 Dường Kim Q đang sử dụng từ Trung tâm y tế huyện L đến đoạn cách cổng Trung tâm y tế khoảng 100m thuộc khu C, Thị trấn B, huyện L thì Dường Kim Q dừng lại lấy 02 (hai) điện thoại di động từ trên người cất vào cốp xe, sau đó Dường Kim Q tiếp tục điều khiển xe mô tô đi tiếp đến đoạn bờ sông thuộc thôn Ô, Thị trấn B, huyện L thấy xung quanh không có ai qua lại nên Dường Kim Q đã cất giấu 02 (hai) chiếc điện thoại di động đã lấy trộm được vào bụi cỏ ven đường sau đó quay lại Trung tâm y tế huyện L. Đến 17 giờ 00 phút cùng ngày, khi được cơ quan Công an mời đến làm việc thì Dường Kim Q đã khai nhận toàn bộ hành vi của bản thân.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 18/KL-HĐĐGTS ngày 12/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện L kết luận giá trị của 02 (hai) chiếc điện thoại là:

- Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y30 màu xanh là 4.378.374 đồng (Bốn triệu ba trăm bảy mươi tám nghìn ba trăm bảy mươi tư đồng).

- Chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Oppo A12 màu đen là 2.891.165 đồng (Hai triệu tám trăm chín mươi mốt nghìn một trăm sáu mươi năm đồng).

Tổng cộng: 7.269.539 đồng (Bẩy triệu hai trăm sáu mươi chín nghìn năm trăm ba mươi chín đồng).

Tại Bản cáo trạng số 65/CT-VKS-LB, ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Dường Kim Q, về tội: Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo Dường Kim Q khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

Bị hại chị Hà Thị S trình bày: Quá trình điều tra chị đã nhận lại 02 điện thoại di động nên không yêu cầu bị cáo bồi thường gì và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Dường Kim Q phạm tội Trộm cắp tài sản. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 09 (chín) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách theo luật định.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về bồi thường dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường nên không xem xét xử lý. Vật chứng: Đã trả lại cho bị hại nên không xem xét xử lý. Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật Bị cáo, bị hại không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Dường Kim Q trước phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người bị hại và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ xác định: Khoảng 13 giờ 10 phút ngày 29/9/2020 tại tại nhà vệ sinh nam tầng 2 Khoa Ngoại - Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn, Dường Kim Q đã có hành vi trộm cắp tài sản là 02 (hai) chiếc điện thoại di động, gồm: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y30 màu xanh và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A12 màu đen của chị Hà Thị S. Tổng giá trị tài sản bị Dường Kim Q trộm cắp là: 7.269.539 đồng. Vì vậy với hành vi trên, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo Dường Kim Q là có căn cứ. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Dường Kim Q đã phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới quyền sở hữu về quyền tài sản của người khác, mà quyền này được pháp luật bảo vệ. Bị cáo lợi dụng sự mất cảnh giác của chủ sở hữu đã trực tiếp và lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình gây ra là vi phạm pháp luật nhưng do bị cáo hám lời nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện, hành vi của bị cáo gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an ninh trên địa bàn huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Do vậy, hành vi của bị cáo gây ra cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật, mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Để có mức án thỏa đáng ngoài việc xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có nhân thân tốt, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của bản thân, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị hại cũng xin giảm hình phạt cho bị cáo, bị cáo có đóng góp ủng hộ quỹ người nghèo tại xã Ái Quốc, huyện L số tiền 500.000 đồng là quê vợ bị cáo (có xác nhận của chính quyền địa phương) nên có thể xem xét áp dụng thêm cho bị cáo hai tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như năng lực hành vi, sự hiểu biết của bị cáo thấy rằng: Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, ngoài lần phạm tội này luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; không có tình tiết tăng nặng. Xét thấy chưa cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách và giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân nơi cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách vẫn đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật đồng thời tạo điều kiện cho bị cáo tu dưỡng rèn luyện bản thân để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Bởi phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị về mức hình phạt, biện pháp chấp hành hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa.

[7] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Hà Thị S đã nhận lại 02 điện thoại di động và không yêu cầu Dường Kim Q phải bồi thường về mặt dân sự. Nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra đã làm rõ chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Vivo Y30 màu xanh, là tài sản của anh Vi Văn T là chồng của bị hại, nhưng tại thời điểm xảy ra mất trộm anh Vi Văn T giao tài sản cho chị Hà Thị S quản lý, bảo quản nên chị Hà Thị S là bị hại đối với chiếc điện thoại di động trên; chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Oppo A12 màu đen là tài sản của chị Hà Thị S. Ngày 20/11/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng biện pháp trả lại tài sản 02 (hai) điện thoại di động cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Hà Thị S theo quy định của pháp luật. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về án phí: Bị cáo Dường Kim Q bị kết án nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; theo điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12- 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[11] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Dường Kim Q phạm tội Trộm cắp tài sản

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Dường Kim Q 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu), tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 21/12/2020. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện H, tỉnh Quảng Ninh để giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí: Bị cáo Dường Kim Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 69/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:69/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Bình - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về