Bản án 69/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 69/2020/HS-ST NGÀY 21/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 49/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 153/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Vũ Thị M, sinh ngày 25 tháng 10 năm 197X tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT:

Đường L, phường L1, quận N, thành phố Hải Phòng; chỗ ở hiện nay: Xóm T, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Bá T và bà Trần Thị B; bị cáo chưa có chồng; tiền sự, tiền án, nhân thân: Án số 224/HSPT ngày 27/9/1996, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử 21 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Án số 193/HSST ngày 20/6/2006, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xử 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (đều đã được xóa án); bị bắt, tạm giữ ngày 25/12/2019, tạm giam ngày 27/12/2019; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 10 giờ ngày 25/12/2019, tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hải Phòng làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực đường bờ hồ tổ 32 phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân, Hải Phòng phát hiện Vũ Thị M đang đứng trên vỉa hè một mình có biểu hiện nghi vấn tội phạm về ma túy. Kiểm tra, thu giữ 01 túi nilon màu trắng, kích thước 2 x 2 cm, bên trong đựng tinh thể màu trắng, nghi là ma túy, tại vị trí túi quần bên trái phía trước của M. Tổ công tác đã đưa M cùng vật chứng về Công an phường Dư Hàng Kênh lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Ngoài ra, còn thu giữ của M 01 điện thoại Nokia màu đen, số tiền 250.000 đồng.

Kết luận giám định số 664/KLGĐ ngày 27/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Tinh thể màu trắng của mẫu QT gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,41 gam, là loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, Vũ Thị M khai nhận: Khoảng 09 giờ ngày 25/12/2019, một người bạn xã hội tên Xuân gọi điện cho M từ số điện thoại 0965.244.569 để hỏi mua 350.000 đồng ma túy đá. M đồng ý bán, hẹn giao ma túy vào khoảng 10 giờ cùng ngày tại khu vực bờ hồ tổ 32 phường Dư Hàng Kênh. Sau đó, M đi xe ôm của một người không quen biết vào khu vực đường tàu Trần Nguyên Hãn mua 200.000 đồng ma túy đá của 01 người nam giới (không rõ lai lịch). Người nam giới lấy trong người 01 túi nilon màu trắng, kích thước 2 x 2 cm, bên trong chứa ma túy đưa cho M. M cầm túi ma túy vừa mua được cất vào túi quần phía trước bên trái rồi đi xe ôm đến khu vực bờ hồ tổ 32 phường Dư Hàng Kênh để bán ma túy cho Xuân nhưng chưa kịp bán thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. M quen Xuân khi cùng đi uống thuốc methadone tại Trường Lao động Xã hội Thanh Xuân nhưng không biết họ tên, địa chỉ của Xuân. Ngày 25/12/2019, là lần đầu tiên Xuân hỏi mua ma túy của M.

Ngoài ra, M còn khai: Trước khi bị bắt, vào ngày 23/12/2019, M đã cũng đã bán ma túy với cách thức giống như ngày 25/12/2019. Cụ thể, M mua 200.000 đồng ma túy đá của 01 người nam giới không quen biết (không phải người nam giới bán ma túy cho M vào ngày 25/12/2019) để bán lại cho 01 người bạn xã hội (không phải Xuân) với giá 350.000 đồng cũng tại khu vực bờ hồ tổ 32 phường Dư Hàng Kênh. Số tiền lãi từ việc bán ma túy thì M đã chi tiêu cá nhân hết.

Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong số 644 đựng ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định, 01 điện thoại di động Nokia màu đen và 250.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 69/CT-VKS ngày 30/3/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Vũ Thị M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Vũ Thị M khai nhận hành vi đã thực hiện phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên tại phiên toà, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Vũ Thị M mức án từ 36 đến 42 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 644 đựng ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Nokia màu đen. Trả lại cho bị cáo 250.000 đồng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

- Về tội danh:

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Vũ Thị M đã có hành vi cất giữ bất hợp pháp 0,41 gam Methamphetamine nhằm mục đích để bán cho người khác để kiếm lời. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an xã hội, làm phát sinh nhiều loại tội phạm hình sự khác. Bị cáo có 02 tiền án số 224/HSPT ngày 27/9/1996 và án số 193/HSST ngày 20/6/2006 đều đã được xóa án, thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu. Vì vậy cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe phòng ngừa tội phạm.

- Về tình tiết giảm nhẹ: [6] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

- Về hình phạt bổ sung:

[7] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không có tài sản và thu nhập nên không cần thiết bắt bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

- Về việc xử lý vật chứng:

[8] Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 644 đựng ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định.

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại Nokia màu đen đã cũ có số imel 354497099229585 là phương tiện dùng cho việc mua bán ma túy.

[9] Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo 250.000 đồng do không liên quan đến việc phạm tội nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Về án phí:

[10] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án:

[11] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[12] Đối với việc M khai mua bán ma túy vào ngày 23/12/2019, ngoài lời khai của M, cơ quan điều tra không thu thập được tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có cơ sở để xử lý.

[13] Người nam giới xe ôm chở M đi mua ma túy và người nam giới đã bán ma túy cho M vào ngày 23 và 25/12/2019, do M không biết họ tên, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không có cơ sở để xử lý.

[14] Đối với Xuân là người hỏi mua ma túy của M ngày 25/12/2019, M không biết họ tên, địa chỉ. Xác minh tại Trường Lao động Xã hội Thanh Xuân, được cung cấp: Năm 2015, có bệnh nhân Đỗ Mạnh Xuân, sinh năm 1969 điều trị methadone. Đến ngày 28/01/2020, Xuân không còn điều trị tại Trường Lao động Xã hội Thanh Xuân. Hiện, không xác định được địa chỉ của Xuân. Cơ quan điều tra đã ra Lệnh thu giữ thư tín, điện tín đối với số điện thoại 0965.244.569 nhưng hiện chưa có kết quả trả lời từ Tập đoàn Công nghiệp -Viễn thông Quân đội Viettel. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Vũ Thị M 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 25/12/2019.

- Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a, b, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 644 đựng ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định.

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại Nokia màu đen đã cũ có số imel 354497099229585 theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

+ Trả lại cho bị cáo Vũ Thị M 250.000 (hai trăm năm mươi nghìn) đồng theo biên lai thu số 0004548 ngày 30/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Vũ Thị M phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Vũ Thị M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:69/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về