Bản án 69/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 69/2020/HS-ST NGÀY 11/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 11 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Lức tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2020/HSST ngày 17 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Văn Hoàng T, tên gọi khác: C, sinh năm 1986 tại Tiền Giang. ĐKTT: Ấp N, xã Đ, huyện G, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L (chết) và bà Nguyễn Thị L; bản thân có vợ tên Lê Thị Bạch T, có 02 người con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2013; Tiền án; tiền sự: Ngày 30/7/2019 bị Công an thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An, xử phạt hành chính số tiền 1.500.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”, hiện chưa nộp phạt; Nhân thân: Ngày 20/02/2020 bị Toà án nhân dân huyện Cần Đước, tỉnh Long An, xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 06-8-2020; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06-8-2020 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Ngô Anh T, sinh năm 1977 ĐKTT: Số 5/4 đường N, phường K, thành phố T, tỉnh Long An (vắng mặt – có đơn xin vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Nguyễn Thị H, sinh năm 1957 ĐKTT: Số 13/18 đường P, phường 1, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

- Người làm chứng: Nguyễn Thế A, sinh năm 1989 ĐKTT: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Long An (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 30/7/2019, Trần Văn Hoàng T bị Công an thị trấn B, huyện B xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Tiếp tục khoảng 21 giờ ngày 19/8/2019, Trần Văn Hoàng T đến chơi game bắn cá tại tiệm game H địa chỉ khu phố 2, thị trấn B, huyện B. Sau đó, T thuê thanh niên chạy xe ôm (không rõ họ tên và địa chỉ) điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) chở T đến khu vực gần sân vận động Bến Lức, thuộc ấp T, xã T, huyện B, T phát hiện chiếc xe ô tô tải biển số 51C-540.29 đang đậu cặp sân vân động, không người trông coi, nên nảy sinh ý định trộm cắp bình ắc quy của xe ô tô trên bán lấy tiền tiêu xài. T kêu người điều khiển xe ôm dừng lại và trả tiền xe cho người chạy xe ôm. T đi bộ đến tiếp cận thành bên phải xe ô tô tải biển số 51C- 540.29 thấy 02 bình ắc quy trên xe, trong đó có 01 bình ắc quy đã mở sẳn nên lấy trộm 01 bình ắc quy hiệu GS 75A-12V ôm đi khoảng 5m thì bị anh Ngô Anh T là tài xế xe trên phát hiện nên T quăng bình xuống đất rồi bỏ chạy, anh T truy hô cùng anh Nguyễn Thế A bắt được T giao Công an xã T, lập hồ sơ ban đầu sau đó chuyển Cơ quan CSĐT Công an huyện Bến Lức điều tra theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 75/KL-HĐĐG ngày 19/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bến Lức, tiến hành định giá và kết luận: 01 bình ắc quy xe tải, hiệu GS 75A-12V, trị giá 775.000đ.

Tại cáo trạng số 57/CT-VKSBL ngày 16-4-2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức truy tố bị cáo Trần Văn Hoàng T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn Hoàng T hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội bị cáo thực hiện đúng như nội dung cáo trạng đã nêu, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội đúng pháp luật, không oan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức trong phần luận tội đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo xét thấy đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 như cáo trạng của viện Kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức truy tố bị cáo là đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu, hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn, do đó cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt:

Bị cáo Trần Văn Hoàng T từ 06 tháng đến 09 tháng tù, thời hạn từ tính từ ngày 06-8-2020.

Do hoàn cảnh gia đình bị cáo gặp khó khăn nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đối với thanh niên chạy xe ôm (không rõ họ tên và địa chỉ) điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) chở T đến sân vận động Bến Lức để T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, hiện Cơ quan điều tra không xác định được nên không có cơ sở xử lý là phù hợp.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm nên không xét đến.

Về vật chứng: 01 bình ắc quy xe tải, hiệu GS 75A-12V là vật chứng vụ án hiện Cơ quan CSĐT Công an huyện Bến Lức đã trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đã nêu, bị cáo xác định cáo trạng truy tố bị cáo là không oan sai bị cáo không tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Lức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị hại vắng mặt nhưng có đơn xin vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng vắng mặt nhưng xét thấy những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt này không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án nên căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt những người này.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, Bản kết luận định giá tài sản, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường và các chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập được thẩm tra tại phiên tòa nên có đủ cơ sở khẳng định xuất phát từ lòng tham lam, tư lợi vì mục đích cá nhân, để có tiền tiêu xài phục vụ lợi ích bản thân, bị cáo nảy sinh ý định tìm tài sản chủ sở hữu để sơ hở để chiếm đoạt nên khoảng 21 giờ ngày 19/8/2019, T thuê nam thanh niên chạy xe ôm (không rõ họ tên và địa chỉ) điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) chở T đến khu vực gần sân vận động Bến Lức, thuộc ấp T, xã T, huyện B, bị cáo phát hiện chiếc xe ô tô tải biển số 51C-540.29 đang đậu cặp sân vận động, không người trông coi, nên bị cáo lén lút chiếm đoạt 01 bình ắc quy hiệu GS 75A-12V trị giá 775.000đ của anh Ngô Anh T, sau khi lấy tài sản đi được khoảng 05m thì bị phát hiện nên bị cáo bỏ chạy, anh T truy hô cùng anh Nguyễn Thế A bắt được bị cáo cùng tang vật. Tuy giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng nhưng bị cáo đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, hiện vẫn chưa chấp hành mà còn vi phạm nên đã đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, do đó Cáo trạng Viện kiểm sát huyện Bến Lức truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

[4] Hành vi trái pháp luật của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, bị cáo đã lén lút lấy chiếm đoạt tài sản, bị cáo thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự địa phương. Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, hậu quả của vụ án cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tài sản đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu, hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn, có con nhỏ, do đó cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định, xét thấy theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo có điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Đối với thanh niên chạy xe ôm (không rõ họ tên và địa chỉ) điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) chở T đến sân vận động Bến Lức để T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, hiện Cơ quan điều tra không xác định được nên không có cơ sở xử lý là phù hợp.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm nên ghi nhận không xét đến.

[9] Về vật chứng: 01 bình ắc quy xe tải, hiệu GS 75A-12V là vật chứng vụ án hiện Cơ quan CSĐT Công an huyện Bến Lức đã trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp nên không xét đến.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Văn Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt:

Bị cáo Trần Văn Hoàng T 06 (sáu) tháng tù, thời gian tù được tính từ ngày tạm giam là ngày 06-8-2020.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tiếp tục tạm giam bị cáo Trần Văn Hoàng T trong thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày 11- 8-2020 để đảm bảo kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Trần Văn Hoàng T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 69/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:69/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Lức - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về